Tháng giêng rộng dài câu Quan Họ

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

truyen mi ni

nguyễn phan hách -





















Truyện ngắn tinh tuyển























NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ    














Truyện ngắn của Nguyễn Phan Hách







Áo gấm

Vợ tôi luôn kêu ca về việc ăn mặc của con cái. Cái Liên thì tóc nhuộm màu hạt dẻ, áo hở vai; thằng Quân thì “quần ngố”, áo gilê túm tó.

- Kệ! - Tôi bảo - Tuổi mới lớn chúng nó cứ phải ngang tàng phủ định, ra oai. Mí lại bà có thấy thiếu nữ châu Âu xưa, bao giờ áo cũng hở nửa vú như vầng trăng đấy ư?

- Ông thì nhảm nhí nó vừa vừa chứ. - Vợ tôi nói - Ông có nhớ thời “quần loe tóc dài” không? Ủy ban tỉnh quê mình lập hẳn một đội đi càn quét. Gặp thằng tóc dài là đè nghiến ra cho một nhát tông đơ lên đến chỏm, trắng hếu. Còn quần loe thì rạch cho một nhát đến đùi. Tôi với ông dạo mới yêu nhau, có đôi vé vào Nhà hát Lớn xem kịch, lãng mạn lắm, vậy mà bọn soát vé chặn lại đuổi thẳng cánh, vì ông mặc quần loe. Đấy, làm gì nó thì làm. Đấy, thời nào mà người ta chả xét nét chuyện ăn mặc!...

Hôm ấy, chú tôi ở quê ra chơi. Chú đã ngoài 80 tuổi. Vợ tôi lại đem chuyện con cái “ăn mặc nhố nhăng” ra phàn nàn.

Chú thủng thẳng kể chuyện:

- Cụ nhà ta xưa làm “Phó lý” trong làng. Thực ra là bán ba sào ruộng, lấy tiền mua cái chức danh ấy. Chứ không phải là làm thực việc. Để được gọi là Phó Trường (Tên cụ). Nếu không, thì bị gọi là anh Cu, anh Đĩ.

Để xứng danh, Phó bán tiếp nửa sào ruộng nữa, mặc cho cả nhà hết ruộng, chết đói, may một cái áo gấm Tầu. Áo bấy giờ đắt lắm. Thời trang của chúng mày bây giờ chưa là cái thá bọ gì so với sự chơi ngông của Cụ. Diện áo gấm Tầu, Phó ra đình ngồi chiếu “nóc hội đồng”, không thèm ngồi với người “không có chức vụ”, ăn tai lợn, đầu gà, danh giá...

Bỗng một hôm Cụ bị lính lệ về tróc lên huyện đường. Cả nhà sợ xanh mắt, không hiểu vì sao. Chả nhẽ Cụ làm “quốc sự” chống lại Nhà nước. Đến nơi, hóa ra không phải. Lý do là có đơn kiện ông Phó Trường dám mặc áo gấm Tầu. Theo luật phong kiến thời điểm ấy, chỉ các Cụ Lớn Nhà nước mới được mặc áo gấm Tầu. Dân thường mặc áo dài vải mộc, phủ the đen.

Cụ Phó nhà ta tìm hiểu luật chưa được kỹ lắm. Luật ghi rõ dân thường chỉ được đi guốc mộc, hoặc guốc gộc tre quai xỏ dây thép. Đỗ Nhất trường thì được đi dép quai dọc. Đỗ Nhị trường đi dép quai ngang. Đỗ Tú tài, Cử nhân trở lên mới được chính thức đi giày. Đấy, thế cơ mà.

Thế mà Cụ Phó nhà mình chữ Nhất bẻ đôi không biết, dám diện hẳn áo gấm. Cụ bị nọc ra giữa công đường, lính lệ cầm những chiếc gậy to bằng cổ tay mà chúng mày vẫn thấy trong phim “Bao Công xử án”, nện cho 10 cái sưng đít (Các cô người mẫu thời trang bây giờ cứ trông gương đấy). Chưa hết, về phải bán nốt sào ruộng cuối cùng để nộp phạt. Tiền phạt gấp đôi tiền mua áo gấm.

Cụ Phó nhà ta về nhà từ đấy sợ quá, chỉ đóng khố, cởi trần, để tỏ ra đã chấp hành luật pháp triệt để...

Đấy, chúng mày thấy chuyện ăn mặc của dân Nam mình như thế nào? Chịu, tùy chúng mày bình luận.

Ông chú tôi cười khà khà. Đôi mắt già bạc phếch nheo lại, vừa khôi hài, vừa ứa ra một giọt lệ như sương...

Đại Yên 3/3/2007


Ông già đánh cá

Trên thượng nguồn sông Thao, có một ông già đánh cá quanh quẩn bên bến đò Bồng Tang. Một lần gặp tôi, ông hỏi:

- Anh ở Hà Nội có biết tòa Vila Rose bên đường Cột Cờ.

Rose là trụ sở một sứ quán lớn. Tòa nhà Gô-tích, nguy nga đồ sộ như là biểu tượng của nền kiến trúc cổ điển huy hoàng. Bao lần đi qua tôi đều giật mình phải chịu vẻ đẹp mẫu mực của nó, khác hẳn những tòa nhà tròn tròn, méo méo đầy nhôm kính bây giờ.

- Đấy là nhà cũ của tôi đấy. - Ông lão đánh cá nói, mắt nghiêm trang.

Tôi bật cười. Bồng Tang là làng có truyền thống nói trạng, nói phét. Hội làng thi nói phét (gọi cho nhẹ đi là nói khoác) “Bồng Tang cả làng nói phét”. “Bồng Tang nói phét có ca. Anh thì nói phét chẳng ra cái thá gì”. Chuyện đã thành câu ca cửa miệng. “Anh ở đâu?” - “Tôi ở Bồng Tang”. Mở mồm ra trả lời, người thiên hạ đã mủm mỉm cười rồi. Đảng ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban phải quyết định đổi tên làng để tránh cái âm ang quái ác. Bồng Tang thành Bồng Tặng trúc trắc, mất gieo vần ca dao! Các văn bản chỉ cần thêm hai dấu ă và dấu nặng là xong.

Nghĩ cho cùng nói phét cũng chẳng tội tình gì. Chỉ buồn cười thôi. Nó thể hiện ước mơ một cái gì tầm cỡ lớn hơn cái hiện tại. “Bác có biết khoai lang nhà em nó to như thế nào không? Đêm em ngủ cứ thấy khoai lang ngáy khụt khịt. Hóa ra có vợ chồng nhà chuột khoét làm tổ ở bên trong”. “Bác có biết da vợ em trắng thế nào không? Đêm, ăn cơm không thắp đèn, nhưng cứ thấy mâm cơm sáng như có ánh trăng rọi vào. Hóa ra vợ ngồi vén quần quá gối, đùi trắng tỏa ra”...

Phét đến như thế thì lãng mạn thật. Nhưng phét đến mức ông già đánh cá là chủ nhân chiếc Vila Rose bên đường Cột cờ thì thật quá đáng.

- Để tôi kể anh nghe. - Ông già nói - Năm ấy cha tôi lên tỉnh tìm mua cái lưới. Thấy ở nhà ả đào có một cô gái to béo, trắng trẻo, ông mê tít, đem hết số tiền mua lưới, vào chơi một trận đã đời. Để đáp lại sự hào phóng của khách tình, cô ả đào tặng ông một chiếc vé xổ số. Vé số này của một người khách nào đó thiếu tiền, ăn quỵt, gán cho cô. Đó là loại vé số do Mẫu quốc phát hành trên toàn nước Pháp và các xứ thuộc địa, mười năm mới tổ chức một lần. Giải độc đắc là một tòa Vila.

Cha tôi trở về bến sông, đêm đêm ngồi trầm ngâm, nghe tiếng sóng rì rào, mơ tưởng tiếng hát ca trù và người con gái ả đào xinh đẹp. Ông đi bộ lang thang trên tỉnh, nhưng không thể gặp “người tình”, vì hết tiền. Lần ấy, sực nhớ trong túi có tấm vé số, vẫn giữ như một kỷ vật của “người yêu”, ông đem so và đã trúng độc đắc. Một tòa Vila tại Hà Nội.

Ông đến nhà ả đào để tìm người tình, định đem về cùng ở trong tòa nhà Rose đầy hoa hồng. Nhưng cô gái đã rời tỉnh lỵ đi đâu mất từ trước đó rất lâu.

Về Rose, cuộc sống ông đã bước lên một thang bậc khác. Một lần, đến nhà Cô đầu Khâm Thiên, giật mình, nhận ra cô gái ngày xưa đang ở đấy, nhưng giọng hát đã khàn đục, sắc đẹp đã phai tàn, ông lặng lẽ rút lui. Và cô gái cũng không nhận ra người cũ. Trong kiếp “bướm vàng phù du”, làm sao cô có thể nhớ được những bông hoa mà bướm vàng đã đậu.

Hình như sự bội bạc của ông đã bị trả giá. Năm 1954, hòa bình lập lại. Chính quyền của người nghèo tiến về Hà Nội. Của cải của bọn tư sản bị tịch thu. Tòa nhà Rose bị lấy làm sứ quán. Cha tôi dắt vợ con trở về bến sông xưa, trong chương trình đi “khai hoang” của thành phố. Và tôi lớn lên, nối tiếp nghề kéo lưới bên sông, nghĩ về ngôi nhà xưa, như một giấc mơ, không có thực. Đấy, chuyện của tôi là như thế đấy. Ông có tin hay không thì tùy.

Mắt ông già rớm lệ nhìn vào quá khứ xa xăm. Tôi nắm chặt mái chèo ướt rượt. Không. Trong kho chuyện “Bồng Tang cả làng nói khoác” có câu chuyện này là thực.

Đại Yên 2/3/2007














Làng Vàng mã

- Vào nhà Phó Nhất. - Ông Chủ tịch xã bảo. Tôi bước theo. Nhà đầu làng. Nền đất sân rêu, cột tre, mái gianh, vách đất. Ông Phó ngồi ngoài hiên vót nan tre, gập thành những ô chữ nhật. Bà Phó lấy giấy thiếc bọc quanh. Tích tắc đã thành thỏi bạc, thỏi vàng lấp lánh.

Đúc bạc, vàng tức là nung chẩy rót vào khuôn. Vợ chồng Phó Nhất sản xuất các thỏi bạc, vàng dễ như bỡn. Chỉ một loáng, bạc, vàng đã vun thành từng đống. Thằng Cu Sún bắt đầu dính hồ, buộc thành từng gói.

Một đống vàng, một đống bạc. Bằng này có thể xây được một cái thành phố nghiêng ngửa với New York của Mỹ hay London của Anh.

Từ xưởng đúc vàng, tôi và ông Chủ tịch xã men ngõ cụt đầy phân chó, phân người của cái xóm dân cư chưa biết làm hố xí, toàn phóng uế ra đường. Người như thế, nên chó nó cũng bắt chước.

- Có thể đây là vàng khối và vàng đen đúc theo khuôn cuộn tròn.

Chúng tôi vào nhà Phó Nhị, “Thống đốc Ngân hàng”. Phó Nhị cởi trần, mặc quần vành nồi hở rốn đang in Đô la, vợ Phó Nhị mắt toét nhoèn đang in tiền Ơrô, cái Gái in Việt Nam đồng (VNĐ). Ba xưởng đang cùng hoạt động tấp nập.

Bản khắc mẫu tiền bằng gỗ thị, đường vân li ti tinh xảo. Phó Nhị phết màu xanh, đặt giấy lên, vỗ nhẹ, tờ Đô la bóc ra, sờ thấy gờ nổi dưới tay. Toàn loại 100 USD. Xếp với nhau thành từng triệu, dễ đếm. Bà Phó Nhị phết mầu hồng đặc trưng lên ván khắc in tiền Ơrô. Cũng toàn loại 100. Cũng bó thành từng triệu. Cái Gái in VNĐ. Mệnh giá 500 nghìn cho đỡ tốn giấy. Mệnh giá ấy mới đủ tiêu vặt. Đút trong ví khỏi cồng kềnh.

Ngồi in tiền mãi, Phó Nhị mỏi lưng, lấy điếu cày hút thuốc lào. Tiện tay vớ bó một triệu Đô la làm đóm châm lửa. Triệu đô cháy vèo. Trông xót cả ruột. Cái Tũn con đi “ị” về, bà Phó lấy luôn bó tiền hai triệu Ơrô chùi đít cho cháu.

Ông Chủ tịch xã xếp giúp Phó Nhị từng bó tiền đã in xong. 100 tỷ Đô la. 100 tỷ Ơrô. Bằng này đủ làm bốc dậy cả một quốc gia chưa phát triển. Tôi sắp đầu tư vào ngành địa ốc. Phó Nhị biếu tôi hai tỷ Đô la. Tôi sẽ xây một khu đô thị mới, hiện đại. Sở hữu một khu đô thị mới, chưa là cái thá gì. Nhưng cái cặp quá bé, không thể nhét thêm tiền được nữa.

- Cho tờ ngân phiếu 50 tỷ Đô la đi. - Tôi nói.

- Có ngay. - Phó Nhị rút ở trong cạp quần ra tấm ván khắc ngân phiếu 50 tỷ Đô la của Ngân hàng New York. Nghe nói người giầu nhất thế giới bây giờ cũng chỉ có 50 tỷ Đô la. Vậy Phó cũng chỉ làm ngân phiếu 50 tỷ. Trí tưởng tượng của Phó không vượt qua hiện thực. Và tôi cũng muốn chỉ giầu bằng các quốc vương Ả Rập hay vua Phần mềm máy tính nào đó thôi. Giầu hơn họ là vô lý.

Tôi đút tờ ngân phiếu 50 tỷ USD vào túi ngực, gài kim băng, sợ thằng móc túi phố huyện thó mất 50 tỷ Đô, cũng phiền.

Rời Nhà in tiền, tôi và ông Chủ tịch sang trung tâm Công nghệ Hai Tếch, kỹ nghệ Nanô. Ti vi màn hình tinh thể lỏng, điện thoại di động 3G, máy tính xách tay... Ở Thung lũng Công nghệ cao, người ta sản xuất ô tô du lịch, máy bay Bô-ing và Airbus. Ở Công xưởng 4, người ta làm hình nhân. Mặt bằng giấy bồi. Người bằng nan tre, quần áo giấy. Toàn sơ mi Pie Cacdin, com lê Xì mốc kinh.

Ông Chủ tịch đứng cạnh đống hình nhân to bằng người thật. Chớp mắt, tôi bỗng thấy ông lẫn vào đám hình nhân, giống hệt nhau. Đám hình nhân và ông cùng động đậy, cười nói. Ông bước vào chiếc ô tô giấy, cầm điện thoại di động giấy. Tất cả hoạt động vù vù, y như thật...

Tân Mai 4/5/2005









Gái đồng trinh

Năm 1954, mấy anh em Thiếu sinh quân chúng tôi từ trong Kháng chiến bước ra, được gọi về Học viện Chính trị để đào tạo thành cán bộ Tuyên huấn.

Trường bên sông Cầu. Xưa vốn là Trường Dòng đào tạo linh mục cho toàn Đông Dương. Một khuôn viên dã hương xanh mướt. Một mảnh nhỏ của châu Âu cổ điển. Những tháp nhọn kiểu lâu đài Gô-tích. Nóc nhà thờ ở giữa cao vút. Phía Đông là giảng đường và ký túc xá. Phía Tây là tu viện Gái đồng trinh, nóc nhà tròn ốp đá đen. Hai khu có tường bao tách biệt. Nhưng trèo lên cao có thể nhìn sang nhau.

Trường Dòng đã di cư vào Nam hết. Chỉ còn một ông thầy già thọt chân vẫn đi xe Môbilét, ở lại trông coi kho đồ Thánh. Tuy nhiên, bên tu viện còn cả chục cô gái đồng trinh. Tôi và Đăng hai thằng bạn thân hay trèo lên cây nhìn trộm sang tu viện. Có một bà Cai già, còn lại toàn các cô con gái trẻ đẹp, da trắng như tuyết, tấm thân tinh khiết bọc kín trong áo choàng đen.

Ít khi thấy các cô ra ngoài. Hình như gái đồng trinh chỉ sống bằng ánh trăng và tiếng hát Thánh ca. Đêm đêm, tiếng đàn Cờ-la-sơ-vanh và tiếng thánh ca trong vắt của các cô gái vọng sang. Chúng tôi hát “Vì nhân dân quên mình” và “Kết đoàn” để “hòa nhịp”.

Một trưa chủ nhật, trường vắng ngắt, tôi và Đăng lại trèo lên cây dã hương nhìn trộm mấy cô gái đồng trinh đang tắm trên bậc đá ao sen. Nắng sáng trắng như lặn vào da thịt các cô soi bên làn nước biếc xanh và những cánh sen hồng. Chuyền cành để tìm vị trí nhìn rõ nhất, Đăng bị ngã một quả trời giáng, mặt méo xệch. Nhưng một tuần sau đấy thì Chúa thương, tạo cho một cơ hội. Hôm ấy, tôi và Đăng làm “anh nuôi luân phiên” đi chợ mua rau. Gặp luôn hai cô đồng trinh cũng đi mua rau. Thế là lân la làm quen. Mari Ngân của tôi và Têrêxa Trinh của Đăng. Hai thằng ngầm chia nhau. Ngân đậm đà, hiền hậu, còn Trinh dong dỏng cao, mắt sắc rờn rợn và có gì hoang dại.

Thực ra thì cả tôi và Đăng đều vừa qua tuổi trẻ con. Đã vác súng ra trận đánh đấm được lần nào đâu. Mari và Têrêxa cũng thế, như hai con chim non mới ra tổ tập chuyền cành. “Học viện” và “Tu viện” yêu nhau, một tình yêu thánh thiện. Dạo dọc bờ sông Cầu ngắm trăng vàng nước biếc. “Học viện” vượt tường, “Tu viện” chui rào đêm đêm. Chuyện vỡ lở. Tôi và Đăng bị Chi bộ họp kiểm điểm. Cứ theo lời phân tích thì tội này có thể làm ảnh hưởng đến hòa bình ở Đông Nam Á. Tôi sợ run, nghĩ mình có thể bị tử hình đến nơi. Bên Tu viện, Mari và Têrêxa bị giam cầm cố. Tôi và Đăng thì phải thường trực dọn hố xí công cộng một tuần liền.

Thế rồi, sự việc diễn ra không ngờ. Đăng viết đơn xin rời Học viện, bỏ quân ngũ. Còn Têrêxa xin ra khỏi tu viện, khô đạo, bị rút phép thông công. Hai người về quê, làm dân thường, yêu nhau, lấy nhau.

Tôi không dám như Đăng. Nghe đâu Mari Ngân đã chuyển đến Tu viện Phát Diệm rất xa. Tôi chỉ biết khóc thầm và làm thơ.

Con thiên nga trên dòng sông xanh.

(Ý nói Mari).

Ta khao khát cả dòng sông không thỏa.

(Ý nói yêu Mari lắm).

Ta với sông gầm lên nỗi nhớ

Con thiên nga bay mất xa rồi.

(Ý nói Mari đi Phát Diệm).

Ta với sông côi cút cùng nhau

Sông bão tố và lòng ta giá lạnh.

(Ý nói buồn và đau khổ).

Mấy chục năm sau, tôi là một chuyên viên tuyên huấn cao cấp, một lần về nói chuyện ở hội nghị tỉnh, gặp Đăng và Têrêxa Trinh cũng đến nghe. Họ vui ríu rít mời tôi về nhà. Nhà cửa khang trang, vợ chồng là một doanh nghiệp nhỏ, con cái trưởng thành, cảnh sống ấm cúng.

- Chị Ngân bây giờ vẫn chết khô trong nhà tu. - Trinh nói - Và trở thành một bà xơ già cấm cảu. Ngày ấy em rủ chị rời bỏ tu viện, chị sợ, không dám.

- Nhưng cũng tại thằng này - Đăng chỉ mặt tôi - Nó tưởng nó sắp bị tử hình nên viết kiểm điểm dài đến bốn trang “phê đúp”, xin chừa...

Đường đời mỗi người một ngả, ai biết thế nào.

Đại Yên 7/3/2007
























Cây đèn đá

Đền Sĩ Nhiếp ở trong thành Luy Lâu. Luy Lâu là thành cổ, “thủ đô” gần ngàn năm của đất Giao Châu xưa, nay chỉ còn là một cánh đồng hoang vắng. May thay, còn một ngôi đền mọc chính trên nền đất xưa là dinh Thái thú Sĩ Nhiếp.

Sĩ Nhiếp tương truyền là người đầu tiên đem chữ  Nho sang Việt Nam và ngồi dậy học cũng chính trên thửa đất nay là ngôi đền. Ngày xưa, các quan lại xuất thân khoa bảng hàng năm đều về đây tế lễ “Nam giao học tổ”. Bây giờ đền Sĩ Nhiếp hoang tàn chỉ có một “ông Từ nghiệp dư” thỉnh thoảng đến thắp hương.

Câu chuyện này chính ông Từ kể lại.

Buổi sáng ấy, ông Từ thấy một ông già đem hai cây đèn đến đền. Loại đèn cổ, bằng đá xám, có đĩa đổ dầu lạc.

- Tôi xin trả lại Cây đèn mà Cụ tổ nhà tôi xưa đã lấy cắp trên ban thờ ngôi đền này. - Ông già nói.

Rồi ông kể:

- Cụ Tổ tôi xưa khao khát cho con cháu có chữ trong đầu, được học hành đỗ đạt làm quan. Ông nghĩ rằng, có ánh sáng của Cây đèn “Nam giao học tổ” soi rọi, dòng họ nhà tôi nhất định sẽ nên người.

Tiếc thay đến bây giờ, tôi vẫn là một ông Phó đóng cối xay, dốt đặc cán mai, không một chữ trong đầu, ngày ngày quẩy gánh đi rao ai... cối... ơ để kiếm cơm thiên hạ. Các con tôi thì cũng chỉ là thợ đào đất, đóng gạch, thợ cày... không ai mon men được đến gần chữ nghĩa. Ngược dòng, mấy đời tam tứ đại nhà tôi cũng toàn chân lấm tay bùn, đổi mồ hôi lấy miếng cơm như thế cả...

Tôi nghĩ chán rồi. Ánh sáng của một cây đèn ăn cắp không thể soi rọi xuống đời người ta được. Xin trả lại Đức ông Sĩ Nhiếp cây đèn này, thì các thế hệ cháu chắt nhà tôi may ra mới có thể nên người được.

Đại Yên, 28/2/2007


















Một cảnh Tết xưa

­ Cụ Lớn Thám hoa vận áo vỏ già, thắt bao cộc, nhẩn nha bước quanh hồ Hoàn Kiếm như bác dân quê. 29 Tết. Nắng hanh vàng rưng rưng. Tiếng pháo tép nổ tạch đùng bâng quơ. Hàng phố náo nức chờ đón xuân sang.

Cụ Thám ngắm nước hồ xanh biếc, có chú rùa vàng đang nằm sưởi nắng dưới chân tháp. Bóng Đài Bút ngả xuống Đài Nghiên cửa đền Ngọc... Bờ liễu, đầy lá rụng. Mấy chị đàn bà nhà ven hồ đang vén cao váy lĩnh vo thúng gạo nếp trắng ngần và rửa chồng lá rong xanh.

Phố Hàng Khay, nhiều nhà đã dán câu đối mừng xuân ngoài cửa. Câu đối gia chủ tự làm lấy cho hợp cảnh nhà. Cụ Thám liếc mấy dòng vụng về thất luật, mỉm cười.

Đã bao năm, cụ Thám giữ lệ, một mình dạo phố ngày áp Tết. Cụ thích chen chân phố Hàng Lược ngắm hoa đào, thích ngửi mùi thanh yên, phật thủ, và mùi khăn áo thiếu nữ Hà Thành ướp hương trầm. Rẽ vào hàng quen, cụ mua cân trà Thiết Quan âm để biếu người bạn thân - cụ Cử Phan đang sống “ẩn dật” “nghêu ngao vui thú yên hà” trong ngõ Hạnh Hoa phố Vũ Thạnh. Cụ Thám một lòng kính phục Cụ Cử. Về sức học, có thể chấp cả thiên hạ, nhưng đường khoa bảng của người bạn sao mà lận đận. Được mời đi làm một chức quan nhỏ trong Kinh, nhưng từ chối, không màng danh lợi quan trường. So với bạn, cụ Thám vẫn có ý thẹn, mà không biết làm sao được...

Khoa thi Hương Hà thành năm nay, cụ Thám làm chánh chủ khảo, mọi sự hoàn tất. Thở phào. Không xảy ra sự cố gì. Tất cả suôn sẻ. Nhưng cụ cũng thấy buồn vì văn chương bây giờ sa sút, nhạt nhẽo, đọc bằng ấy quyển mà chẳng thấy một áng văn nào loé sáng. Đã thế, nghe đâu chỉ vài năm nữa khoa cử Hán học sẽ bị bãi bỏ. Thay vào là chữ “Phơ-răng”.

... Cụ Thám dừng bước trước hiệu đồ cổ phố Hàng Bạc. Chủ hiệu nhắn trước, có một thứ quý dành cho cụ: Chiếc nghiên mực đá chạm rồng trong thư phòng Càn Long xưa, dân chơi mới sưu tầm được. Có thứ này bày phòng khách Tết năm nay, cụ Lớn Thám hoa sẽ thấy vui hơn...

Đi bộ một vòng mà mỏi. Về đến nhà, bà Thám đang ngồi lựa những củ Thuỷ tiên Cụ Thám gọt tỉa từ tuần trước, đoán xem đoá nào sẽ nở đúng thời khắc giao thừa. Cánh hoa như kim đồng hồ chỉ đúng phút giây đầu tiên năm mới.

Dinh cơ bát ngát cổ kính rêu phong của cụ Thám là do cha ông để lại. Người Tây mở phố lấn mất quá nửa. Cụ đành gượng xây cái hàng rào lợp ngói mũi hài để ngăn cái ồn ã phố phường. Góc vườn còn lại nhỏ nhoi, trơ trẽn, đành đắp ngọn giả sơn, đào khe nước nhỏ bắc cầu trồng liễu để tìm lại cái phong vị ngày xưa... Nắng ấm rưng rưng, vườn nhỏ nhưng đào mai vẫn cố nở theo đúng tiết xuân. Đào nồng thắm, mai thanh cao, cúc da diết, lan nhớ buồn quá vãng... Cụ Lớn Thám hoa trầm ngâm ngồi đấy bên tràng kỷ. Khi tiếng pháo giao thừa râm ran đường phố, cụ bắt đầu trải giấy hồng điều lên án khai bút đầu xuân. Những dòng chữ “rồng bay phượng múa” như bước đi nhảy nhót của mùa xuân về với lòng già, về với ông Quan Đốc học Hà Thành sắp về hưu, hết thời, sắp đi vào dĩ vãng. Những dòng chữ đã dắt ông bước trên đường đời và bây giờ sắp đến giờ ly biệt.

Hà Nội, Tết 2010











Săn Đại bàng

Thảo  nguyên  xanh  ngắt, cỏ mượt  như  nhung. Chàng kỵ sĩ phi con Mai Hoa ngược gió, bờm tung lên như hoa lau.

Trên đầu kỵ sĩ, một con Đại bàng Kim Điêu màu xám giang rộng cánh bay theo. Kim Điêu đã được thuần hóa, nuôi trong nhà, là bạn của chàng, gắn bó như hình với bóng.

Bốn vó Mai Hoa khi tung lên, cánh đại bàng cũng vọt lên cao. Nó nhởn nhơ với mây trời một lúc, rồi lại sà xuống bám sát chủ.

Buổi sáng trong vắt, long lanh sương mai. Tia nắng rẻ quạt từ chân trời lia chéo những luồng sáng tím hồng rực rỡ. Mùi cỏ non, mùi sương, mùi nắng sớm, mùi tinh khiết đất trời xộc lên.

Mai Hoa lao một đường vòng tròn rồi từ từ dừng lại, chân vẫn giẫm chồm chồm quanh vạt tầm ma hoa trắng. Chàng kỵ sĩ bước xuống. Kim Điêu cũng cụp cánh đậu xuống vai chàng. Nó nhún nhẩy theo bước đi của chàng. Đôi móng nguyềnh ngoàng sắc nhọn bám chặt.

Kỵ sĩ ngồi xuống cỏ, ngả người ngắm bầu trời. Sau những tuần u ám xầm xì, hôm nay nắng mới lên rực rỡ. Nắng đẹp này, sẽ có những chú đại bàng non, từ trong dẫy núi đá xám đằng Tây, mới đủ lông cánh, bay ra nô rỡn mây xanh. Và hôm nay, chàng kỵ sĩ sẽ giăng bẫy bắt lấy một con.

Săn đại bàng Kim Điêu là nghề cha truyền con nối của chàng. Vùng này có giống đại bàng lớn, quý giá khác thường, không đâu có. Một con Kim Điêu được thuần hóa, đem sang bên kia biên giới, bán đi, là một tài sản nhỏ. Kim Điêu dũng mãnh khác thường và trung thành, có thể sống hết đời bên chủ. Những chàng kỵ sĩ thảo nguyên khi ngựa phi dưới đất, trên đầu có Kim Điêu bay theo đã là một biểu tượng oai hùng, lãng mạn.

Con Kim Điêu là “vệ sĩ” của chủ. Mỏ sắc nhọn, chân đầy móng vuốt có thể cào rách mặt kẻ địch. Kim Điêu là kẻ báo tin, đưa thư, lao vút giữa trời để đến những nơi cần đến.

Thảo nguyên mênh mông, Kim Điêu thường rong ruổi cùng chủ, ngao du. Từ trên cao, bất thần nó có thể sà xuống quắp những con chồn quý có bộ lông tuyệt đẹp thường thấy trong áo mũ quý bà. Hoặc tầm thường hơn, nó tầm nã những con cầy, cáo, sóc thỏ rúc trong các bụi tầm ma, cho chàng kỵ sĩ nhóm ít củi khô, nướng thịt...

Chàng kỵ sĩ đặt bẫy. Chiếc lưới nhỏ phủ cỏ. Những sợi dây cước trong suốt nối liền các lò so kim loại. Mấy chú chuột núi béo múp được buộc chân, cho chạy loăng quăng, rử mồi.

Con Kim Điêu xám, “trợ thủ” của kỵ sĩ, đứng yên quan sát chủ. Nó đã quá quen cảnh này. Với biệt danh “Kim Điêu Cầu Vồng” mấy năm nay, nó đã gắn bó với chàng. Nó bị sa bẫy ngày ấy để rồi bị thuần hóa nuôi dậy thành bây giờ. Nhưng nó đã quên, quên hết, không nhớ và không muốn nhớ gì cả. Và hiện tại chỉ nhớ rất chính xác cách thức nó sẽ bay lên dụ dỗ một con đại bàng non như thế nào...

“Kim Điêu Cầu Vồng” là báu vật của chàng kỵ sĩ. Ai mua cũng không bán. Nó có đường lượn cong bay bướm, hào hoa nên được đặt tên này.

Nắng lên cao, sương thảo nguyên vỡ òa. Đây là thời khắc những chú đại bàng non, được ấp nở bú mớm, lớn lên trong các hốc đá xám thức giấc. Đôi cánh nó đã dài cả sải. Sức trẻ sục sôi, mắt nó khao khát bầu trời. Nó coi thường đám mây xanh ngắt trên cao. Bởi nó lượng sức mình đã có thể bay vút lên đè đám mây xuống.

Chàng kỵ sĩ nấp kín trong bụi tầm ma. Gai cào xước má. Phấn hoa vàng quệt đầy vai áo. Chàng vỗ tay ra hiệu cho “Kim Điêu Cầu Vồng” bay lên, vì đã thấy trên trời, bóng một chú đại bàng non bay lượn.

“Cầu Vồng” vỗ cánh mạnh đến mức nghe thấy tiếng gió bị đập ào ào. Nó nhởn nhơ đảo vài vòng quanh “chú em ngây thơ”. Chú em đang ngây ngất ngắm trời xanh và ngầm tự hào khoe với “người anh” về sự trưởng thành của mình. Nó ưỡn ngực, ngẩng cao đầu và để gió trôi ràn rạt qua hàng lông cứng cáp. Nó đã xứng đáng là “Đại bàng Kim Điêu” của núi đá, thảo nguyên này. Không có gì phải hổ thẹn. Hôm nay nó vào đời. Nó sẽ bay theo “người anh” lẫm liệt oai phong kia để đến bất cứ chân trời nào.

Con “Kim Điêu Cầu Vồng” khép vòng quyến rũ, rủ rê, hướng đạo. Còn gì đẹp bằng hình ảnh hai anh hùng đi tìm chân trời. Hai con Kim Điêu, một già một trẻ bay song song. Chúng lượn lờ thỏa thuê với bầu trời. Bầu trời giờ chả là cái gì ghê gớm với chúng. Chúng là chủ. Chúng nâng bầu trời trên cánh, quắp bầu trời dưới chân. Đêm nay, chúng sẽ quắp những ngôi sao và có thể cả vầng trăng thảo nguyên về tổ.

Sau khi đã ru rín để thỏa mãn lòng kiêu hãnh của khát vọng, “Kim Điêu Cầu Vồng” chầm chậm hạ cánh. Con đại bàng non theo “đại ca” như hình với bóng. Nó đã được tin cậy, dìu dắt. Khi những chiếc lò xo nẩy lên, màn lưới vây giăng, đại bàng non vẫn chưa hiểu điều gì đã xảy ra.

Con Cầu Vồng xong nhiệm vụ, uể oải vỗ cánh là là mặt cỏ bay ra xa. Nó không muốn nhìn cận cảnh chú đại bàng non bị bắt nhốt vào lồng như thế nào...

Con Mai Hoa rùng mình như rũ nắng thảo nguyên chan chứa quanh mình. Nó ngước nhìn bầu trời, ước lượng chiều cao một cách tuyệt vọng và khởi động bước kiệu. Con Cầu Vồng thì lười nhác, khinh bỉ, không thèm nhón một bước chân nào trên cỏ.

Chàng kỵ sĩ tay xách lồng chim đại bàng non, tay nắm bờm ngựa.

Mai Hoa không có gì phải vội. Thảo nguyên hôm nay như mới tinh khôi. Nó bước thủng thẳng, lòng buồn khi nghe thấy trong lồng con đại bàng non đã nhận thức được tình trạng của mình, đang quẫy đạp lồng lộn.

Chàng kỵ sĩ và “Cầu Vồng” im lặng. Con đại bàng non kêu the thé lạc giọng đau đớn. Tiếng đại bàng quen nghe âm vang dội từ trời xanh xuống, giờ nấc lên nghẹn ngào trong lồng, thật thảm hại.

Hoa Mai hí lên khe khẽ, không hiểu vì sao. Nó luôn rùng mình chồn bước...

Buổi sáng nay đầy hứng khởi với chàng kỵ sĩ. Đại bàng non trong lồng trên tay quật quã, “Cầu Vồng” trên vai rung rinh, tưởng tượng nếu cả hai con cùng cất cánh có thể lôi chàng bay bổng lên trời...

Con Cầu Vồng lim dim mắt. Chợt như cảm nhận được một cái gì khẩn cấp, nó choàng tỉnh. Chẳng riêng nó, cả chàng kỵ sĩ lẫn Mai Hoa đều giật thót mình ngoảnh lại. Từ vầng mây xám bạc trên đầu, một con đại bàng mẹ màu đen nhung, dữ tợn, to lớn đang sà xuống như tên bắn. “Goa... goa... goa...”. Tiếng nó vang lên thảng thốt.

Chàng kỵ sĩ biết ngay tình huống. Những con đại bàng mẹ thường luôn để mắt đến con. Bằng sóng điện giao cảm riêng của loài đại bàng, chúng luôn tìm được nhau.

Giờ chiến tranh đã điểm. Con “Kim Điêu Cầu Vồng” rời khỏi vai chủ, thực hiện trách nhiệm của mình, bay lên ngẩng đầu nghênh chiến. Giữa bầu trời thảo nguyên, hai con Kim Điêu dũng mãnh chạm mỏ tóe lửa. Mỗi vòng bay của chúng tít xa và khi quay lại thì bằng cả sức lao của đường bay dài. Một vài chiếc lông không biết của con nào đã rơi bay lơ lửng. Cánh chúng sạt vào nhau đọ sức mạnh. Những đôi vuốt tua tủa giơ giữa trời như muốn cắm phập vào đối phương. Vuốt đọ vuốt, ức đọ ức, hai con Kim Điêu cùng đọ mỏ gào lên.

Chàng kỵ sĩ tin tưởng “Cầu Vồng”, nhưng không khỏi lo lắng. Con Kim Điêu nhung đen to lớn áp đảo và đang trong cơn cuồng nộ. Cái mỏ kia có thể mổ trúng sọ người chết tươi.

Bầu trời thảo nguyên thường có cảnh những con đại bàng lồng lộn giao chiến, lông rơi lả tả. Có trận quyết liệt đến mức một trong hai con trúng thương loạng choạng rơi xuống đất. Nhưng con chiến thắng không bao giờ sà xuống mổ tiếp địch thủ cho đến chết. Con bại trận lê lết tấm thân đẫm máu vào một bụi tầm ma nằm đấy ẩn nấp. Chàng kỵ sĩ đã đôi ba lần bắt được những Kim Điêu thất thế ấy đem về chạy chữa.

Kỵ sĩ thật sự kinh sợ khi nhìn lên thấy đã mấy lần “Cầu Vồng” bị dính những cú đòn ác hiểm. Kim Điêu mẹ xoải cánh, bổ từ trên cao xuống như trời giáng. Nếu trúng trực diện thì “Cầu Vồng” có thể tan xác. Thế chủ động đã hoàn toàn thuộc về Kim Điêu mẹ. Nó gần như đuổi theo “Cầu Vồng” để quần thảo, còn “Cầu Vồng” thì chống đỡ.

Chàng kỵ sĩ thấy nguy. Phải cứu nguy ngay tức khắc bằng cách cắt nan lồng thả con đại bàng non ra, trả cho mẹ nó. Như vậy, tháo ngòi được cuộc chiến mà chưa biết chừng chàng có thể bị mất “Cầu Vồng” báu vật.

Từ lưng ngựa, đại bàng non vỗ cánh một cái đã lao lên được tới gần mẹ. “Goa... goa... goa...” hai mẹ con xáp nhau, kêu lên mừng rỡ...

“Cầu Vồng” lượn vòng ngoài nhìn cảnh hai mẹ con gặp nhau. Còn nó, nó không nhớ gì hết, không biết là mình có một người mẹ hay không.

Hai mẹ con Kim Điêu dìu nhau, bỏ chiến trường thảo nguyên, bay về dãy núi đá. Bóng chúng nhòe dần, tít xa...

8/1/2010








Lấy Tây

Dòng họ Lại làng Múc đời nào cũng có con gái đẹp khác thường. Xa xưa có một cô được chọn làm cung phi. Hồi ấy, họ đi tuyển cung nữ như tuyển “nghĩa vụ quân sự” hàng năm, nên mò ra cô gái họ Lại ở cái làng khỉ ho cò gáy này. Lại Nương thuở ấy đã sinh hạ được hoàng tử. Cả họ Lại vẻ vang. Nhưng rồi đánh đùng một cái có lệnh triều đình về tìm giết bố mẹ anh em Lại Phi. Chẳng còn hiểu ra làm sao nữa. Đầu rơi như sung rụng. Hoá ra có sự tranh giành kế ngôi suýt nữa họ Lại có cháu ngoại làm vua, tiếc quá, cách một sợi tóc, bị thua, bị triệt hạ. Cả họ Lại chạy tan tác. Chưa được hưởng chút ân sủng gì của Lại Phi ngoài cái tiếng hão, nhưng vạ thì như quả tạ rơi xuống đầu.

Mấy đời sau, họ Lại có một cô đang mò cua bắt ốc, bỗng nhiên bị người ta bắt về rửa bùn đất chân tay cho lên kiệu, khênh về Kinh. Hoá ra Vua có bọn “mật thám” thuộc ngạch “tình báo quốc gia” chuyên đi khắp ngang cùng ngõ hẻm rình mò con gái đẹp.

Lại Nương thứ hai về cung nghe đâu đến mười năm sau mới được ngủ với vua. Vua có lệ các cung nữ phải bịt mắt bằng dải băng đen, tuyệt đối không được nhìn ngọc thể, long nhan lúc đang “làm tình”. Hôm ấy, vua “làm xong” mệt quá lăn ra ngủ, ngáy như sấm. Lại Nương yêu vua say đắm, tự cởi băng đen, để ngắm “người yêu”, xem mặt rồng đẹp đến mức nào. Bất ngờ vua chợt tỉnh, khép nàng mắc tội “khi quân”. Ai cho phép nhìn người vừa ngủ với mình. Vua cơ mà, “Con giời” sao lại có thể “hì hà hì hục” trong đêm “mất tư thế”, như vậy được. Lại Nương cung phi bị giam vào lãnh cung lạnh lẽo từ đó cho đến lúc chết già.

Xem ra làm vợ vua quả không sung sướng gì. Họ Lại rút ra được bài học. Nhưng họ Lại có nòi vẫn cứ sản sinh ra con gái đẹp. Thời “cận đại” (tức là thời còn đồn bốt Pháp gần đây) họ Lại lại có cô gái xinh đẹp kiệt xuất thứ ba tên là cái Tý.

Hôm ấy, lính Pháp đi càn, xục vào từng nhà lùng bắt du kích Việt Minh, có một tên tính lê dương 20 tuổi, quê ở đảo Cooc, đồng hương với Napôlêông và hình như cũng có họ với hậu duệ Bônapác. Napôlêông giỏi đánh nhau, hắn thì giỏi nghịch lỗ giời lỗ đất. Làm nghề đưa sữa buổi sáng, ở quê, hắn bị các cô gái thị trấn khinh rẻ, chẳng ai thèm yêu. Sang đây hắn vụt thấy mình thành Napôlêông con, oai lạ, đi đâu, cầm súng bắn đòm đòm, dân địa phương sợ mất vía. Chẳng bù cho hồi ở quê luôn bị bọn thanh niên thị trấn bắt nạt, cho ăn đòn.

Tên lê dương đảo Cooc thấy cái Tý đẹp quá, liền xà vào túm gáy như túm con mèo. Trong khi đồng đội đang đi xục tìm Việt Minh thì hắn thản nhiên lột truồng cái Tý ra giữa nhà, hiếp trước mặt mọi người. Đúng lúc ấy, du kích nấp dưới ao bèo vọt lên phản công. Thằng Tây cứ thế tồng ngồng bỏ chạy bán sống bán chết.

Cái Tý vừa mặc quần vừa nức nở khóc. Một giọt máu trinh thấm đỏ trên nền nhà. Ba tháng sau, bụng cái Tý lùm lùm, rồi chín tháng sau to vượt mặt. Đứa con gái đẻ ra mắt xanh, tóc vàng, da trắng như ngọc nữ tiên đồng. Ai cũng khen đứa bé đẹp, nhưng ai cũng nói đời cái Tý thế là vứt đi, chẳng ai lấy nữa. Cái Tý mò cua bắt ốc nuôi con trong sự khinh rẻ của xóm làng. Tháng 7 năm 1954, hiệp nghị hoà bình Giơnevơ ký kết, một đoàn lính Pháp hành quân trên đường tập kết về Hải Phòng, dừng chân nghỉ lại làng Múc. Một người lính Pháp tìm cái Tý. Nó vẫn không quên người con gái đẹp mà nó đã một lần “ân ái”, dù chưa “hoàn tất”, đã phải bỏ chạy chí mạng. Cái Tý vồ lấy nó cắn xé. Nhưng rồi sau đấy bất ngờ ôm con đi theo nó trong đoàn lính Pháp. Đoàn quân Viễn chinh thất trận, bây giờ hiền khô, chuyền tay nhau hôn hít đứa bé và chiều chuộng cái Tý như tiểu thư công chúa, cho sữa “con chim” và bánh bích quy đầy tay nải, cái Tý ăn thoả thích thay cơm.

Thế là người Lại Nương xinh đẹp đời thứ ba lại ra đi...

Và suốt từ đấy, không ai còn nhắc đến cái Tý nữa. Y như là nó chưa từng có trên đời.

Thế sự vần xoay, bốn mươi năm sau, một buổi tháng Mười, dân làng Múc đang tấp nập gặt mùa, có một chiếc xe du lịch sang trọng, từ đâu chạy về đỗ giữa ngã ba đường đầy rơm rạ. Một quý bà xinh đẹp bước ra, hỏi thăm đường về nhà ông Tẻo, anh ruột của một con bé ngày xưa tên là cái Tý đã bỏ làng đi năm 1954. Mọi người à ồ nhớ ra. Bà Mary Tý cho anh ruột 10 ngàn đô la để xây một căn nhà mới, lấy chỗ thờ cúng mẹ cha. Bà ngồi khóc nỉ non: “Cha ơi... mẹ ơi... lúc cha già mẹ héo con không được nâng giấc thuốc thang...”. Bà kể: Bây giờ bà ở Paris. Chồng bà khi sang Đông Dương là anh lính quèn, nhưng theo nghiệp quân sự, về đến Pháp dần dần thành ông thiếu tướng. Chiến tranh làm cho con người thành xấu xa dã thú, nhưng về đến Pháp, trong hoà bình, thì ông ấy tử tế lắm. Thương vợ thương con, nâng niu chiều chuộng, không ai bằng. Con bé bà đẻ ở làng Múc ngày xưa sống bằng cua nướng ốc lùi, giờ là Tiến sĩ y khoa...

Sung sướng nhưng bà cứ canh cánh, nhớ làng Múc quê hương. Bà phải về thăm lại một lần, để sau này trở lại Pháp chết mới nhắm mắt được...

Hoá ra hậu vận của người Lại Nương xinh đẹp thứ ba còn tốt hơn các Lại Nương thứ nhất, thứ hai...

Sang thời “Đổi mới”, họ Lại lại có người đẹp thứ tư. Xem ra người đẹp xuất hiện ứng với từng “giai đoạn lịch sử”. Lại Nương thứ tư là người mẫu thời trang,  chuyên trình diễn mốt áo quần trên ti vi. Nàng tên Ngọc Diệp. Các cụ làng Múc nói: Thực ra, Lại Nương thứ tư chẳng đẹp gì, cao như cái “minh tinh nhà táng”, gầy giơ xương, chuyên mặc thứ thời trang hở rốn nhố nhăng như con nặc nô. Nhưng ti vi nó đã bảo là đẹp thì cũng phải coi là đẹp, chứ biết làm thế nào. Các cụ quả quyết: Bọn “mật vụ tình báo” của nhà vua xưa, nhất định nó sẽ không “tuyển nghĩa vụ quân sự” loại này. Thậm chí, cả thằng Tây lê dương đi càn, nó cũng không thèm. Nhưng Lại Nương thứ tư vẫn cứ “đăng quang”. Âu cũng là cái số của họ Lại. Đời nào cũng có người đẹp. Rồi không đẹp nó cũng cứ gán cho là đẹp.

Ngọc Diệp, noi gương cái Tý ngày xưa quyết lấy chồng Tây. Không ai ngạc nhiên. Tây bây giờ đầy Hà Nội. Cũng theo các cụ làng Múc nói: Bọn Tây “gà mờ” nhất về chuyện chọn con gái đẹp. Người béo tốt nõn nà, mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài thì chúng coi thường, còn đét đen (gầy đét, da đen) thì nó thích. Ngọc Diệp lấy một ông Tây ở cái xứ gì tên cứ như tiếng trẻ con mới đẻ khóc: OE, EU... EU, nghe nói giầu lắm. Ngọc Diệp theo chồng về EU.

Bẵng đi mấy năm, người ta cứ nghĩ Ngọc Diệp bây giờ đã là “phu nhân mệnh phụ EU”, ký séc ra tiền, đút tờ phụ “bìa nhựa cứng” vào bất cứ cái “hộp sắt tây” nào trên đường phố, là tự nhiên tiền tuôn ra rào rào như có phép tiên. Sướng thật. Đâu có như anh em mình, ngón tay nhấm nước bọt đếm từng tờ bạc lẻ cáu bẩn. Vậy mà không ngờ, một hôm, bỗng thấy Ngọc Diệp mặt “xanh như đít nhái” đi xe ôm từ Hà Nội về làng không khác một con ăn mày. Thế là thế nào? Hàng tuần lễ sau, hoàn hồn, Ngọc Diệp mới kể chuyện với người thân. Hóa ra Ngọc Diệp mới thoát chết ở cái xứ o, e, u, e trẻ con mới đẻ khóc về. Chồng cô là một ông Sít Mít, Sơ Mít nào đó đi khắp thế giới, các nước nghèo, để tìm vợ. Ai mà chả thích lấy EU, về EU ở. Sít mít cưới xin đàng hoàng, có giấy hôn thú của quốc gia sở tại và EU công nhận. Về EU, Sít Mít mua “bảo hiểm nhân thọ” cho vợ với mức cao chót vót. Yêu quý sinh mạng vợ đến thế là cùng. “Nhân quyền” đến thế là cùng. Đúng là xứ sở văn minh cực điểm.

Sít Mít nuông chiều vợ, chẳng bắt làm ăn gì, chỉ suốt ngày đi du lịch. Rồi Sít Mít “nguỵ tạo” ra một bối cảnh để vợ gặp tai nạn đi du lịch mạo hiểm, leo núi cao, ngã vực thẳm, tắm biển chết đuối...). Sít Mít được “bảo hiểm nhân thọ” đền bù sinh mạng vợ gấp mười, gấp trăm tiền đóng. Sít Mít đã “đánh quả” thành công ba vụ. Vụ thứ nhất lấy vợ Mỹ Latinh. Vợ thứ hai, châu Phi. Vợ thứ ba, Trung Đông. Vụ thứ tư, Sít Mít nhằm vào châu Á. Và Ngọc Diệp của làng Múc được “lịch sự chọn”.

May sao, phúc đức cho họ Lại, Lại Nương thứ tư đã thoát. Cao ngổng cao ngồng, chuyên mặc quần hở rốn, nhưng nó tinh khôn ra phết. Hôm ấy, Sít Mít để một mình vợ phóng xe lên dốc đèo cheo leo, vực thẳng tìm “cảm giác mạnh”. Xe đã bị cắt phanh mà Diệp không biết. Đến khi phát hiện ra, đang đà lên dốc, Diệp phóng người qua cửa, nằm chết ngất bên vệ cỏ. Nhưng còn hơn cả người lẫn xe lao xuống vực theo “lập trình” của Sít Mít.

Chuyện vỡ lở, Cảnh sát EU điều tra, phát hiện ra quá trình tội ác của Sít Mít, cho nó vào “nhà đá an dưỡng” để hưởng “bảo hiểm nhân thọ chung thân”. Đáng lẽ phải tử hình, nhưng xứ EU nó “hữu khuynh” không có hình phạt đó. Còn Ngọc Diệp, sợ quá, với chiếc sơ mi cuối cùng trên người, chạy thẳng một mạch từ EU về làng Múc.

Từ đấy, không thấy Lại Nương thứ tư ló mặt ra thành phố nữa, chỉ ở nhà quanh quẩn trồng rau, nuôi gà trong vườn.

Đại Yên, 18-4-2007








Chiếc cầu

Từ nhà ga heo hút miền núi, Tuyên phải đi nửa  ngày đường xe ngựa nữa mới tới Suối Bạc. Mùa đông ảm đạm, đỉnh núi nhòa mây. Cầu Suối Bạc chênh vênh cong cong như chiếc lược sừng đen vắt giữa hai bờ đá ướt rượt ẩn hiện trong sương mù.

Chiếc cầu như hư ảo. Tiếng đồn về nó từ xưa rùng rợn. Có một con ma thường hay rủ người buồn lên dạo trên cầu rồi lao đầu xuống dòng suối lạnh buốt. Bên kia cầu là lối đi vào thung lũng hoang, quanh năm chìm mờ sương khói.

Vẻ đẹp huyền thoại ấy quyến rũ Tuyên. Anh muốn vẽ. Tuyên đã nhiều lần đứng ngắm chiếc cầu. Một vệt cong đen hằn trên nền trời u ám. Có hôm vệt cong đen kẻ dưới bóng cầu vồng bẩy sắc sau mưa, gợi cảm giác ma quái.

Chuyện người tự tử trên cầu này là có thật. Dân quanh vùng vẫn kể. Từ đời xưa đã thế. Không hiểu tại sao? Những chàng trai cô gái thất tình đã ra đây trẫm mình. Con số lên tới chục.

Tuyên vẽ cầu Suối Bạc trong sương, phảng phất không khí huyền ảo. Nhìn bức vẽ chính anh cũng giật mình. Chiếc cầu đen gạch nối giữa hai mỏm đá xám trông lạnh lẽo ảm đạm gợi cảm giác buồn khó tả cho chính anh.

Bức vẽ đã xong, nhưng hình ảnh trong tranh cứ ám ảnh anh không dứt. Chả lẽ ma quái trên cầu cũng ám vào tranh.

Một buổi sớm nắng lên rực rỡ, Tuyên lại ra ngắm cầu. Nắng xua sương tan hết, trời xanh lơ, núi non xanh biếc, suối bạc chảy long lanh. Cảnh khá vui. Chỉ có chiếc cầu đen kịt như chiếc lược sừng là vẫn giữ nguyên hình bóng cũ.

Một cảm hứng lạ chợt xâm chiếm lòng Tuyên. Anh vội giở bức tranh, dùng nét sơn dầu màu trắng, xoá hình chiếc câu. Thay vào đó anh vẽ chiếc cầu màu lục tươi. Bức tranh cho hiệu quả khác hẳn. Trời xanh lơ, núi xanh ngắt, cầu xanh tươi... tất cả hài hoà. Cảm giác nặng nề ảm đạm tăm tối của chiếc cầu đen chênh vênh giữa hai bờ đá xám, nhẹ vơi hẳn.

Tuyên sung sướng vì hiệu quả của sắc màu vừa tìm được. Anh tặng bức tranh cho người bạn đang làm chủ tịch thị trấn Suối Bạc, rồi trở về Hà Nội. Hai năm sau, anh nhận được thư. Người bạn chủ tịch viết: “Bức phong cảnh cầu Suối Bạc được treo trong hội trường lớn. Bao nhiêu người đã xem. Rồi đến một hôm người ta giật mình bảo nhau: Tại sao ta không sơn lại chiếc cầu Suối Bạc kia thành màu lục tươi như trong tranh? Như vậy, có phải phong cảnh nơi này đẹp vui hơn không? Công việc được thực hiện. Chiếc cầu đen đã biến mất. Chiếc cầu xanh ra đời uốn mình trên dòng nước trắng lấp lánh.

Từ khi chiếc cầu thay màu, tin hay không tin mặc anh, nhưng tôi phải nói điều kỳ lạ này cho anh biết: Số vụ tự tử trên cầu giảm hẳn. Cái màu xanh kỳ diệu kia đã làm giảm bớt cảm giác buồn tuyệt vọng của màu đen ẩn hiện trong sương mù ngày xưa gây nên. Nó nhen nhóm sự sáng suốt, thăng bằng tinh thần cho người quẫn chí.

Họ có thể đi tự tử ở đâu, tôi không biết, nhưng họ ít đến cái cầu Suối Bạc này của chúng tôi nữa.

Một lần nữa tôi muốn hỏi điều tôi nói anh có tin và có hiểu không?

Họa sĩ Tuyên đọc thư, run run, một giọt nước mắt rơi làm nhoè hàng chữ...













Người bán đào Tết

Miên thồ cây đào tết ra chợ hoa bờ hồ Thuyền Quang bán. Cây đào của Miên 28 Tết, nắng vàng nao nức. Cây đào của Miên uốn dáng quấn quýt nụ chen lá, lá chen hoa.

Khách nườm nượp dạo bước ngắm hoa. Còn Miên thì đứng khoanh tay ngắm họ. Người nào mặt mũi cũng rạng rỡ. Hoa tết làm họ ngất ngây. Chồng dắt vợ, vợ dắt con tung tăng chỉ trỏ, trầm trồ. Tha hồ mà lựa chọn. Kẻ chăm chăm mặc cả, chỉ mong giá hời. Người tài tử chỉ đi tìm hoa đẹp...

Cây đào cao ngang đầu Miên. Làn gió sau hồ thổi, tóc cô vướng vào cành đào. Miên lựa gỡ tóc làm rụng mấy cánh mãn khai...

Người con trai ấy đến vào mùa đào vừa gieo hạt nẩy mầm. Anh ngắm những mầm đào khoẻ như lưỡi mác nhưng ứ nhựa non tơ, khẽ chạm là gãy. Anh với Miên dầm trong mưa xem mưa mát lạnh tưới mầm cây. Mầm cây ướt đẫm, họ cũng ướt đầm. Họ giống hai mầm cây.

Rồi một ngày họ ghép mắt đào. Đào phai có quả, nhưng hoa thưa màu nhạt. Bích đào không kết được quả, nhưng hoa dày xít, tươi thắm.

Có quả mới có mầm cây non. Đem ghép mắt bích đào vào gốc đào phai, đào sẽ nhiều hoa. Dòng nhựa của gốc đào phai nuôi lớn những nụ hoa đào bích.

Anh ví von: Em là gốc đào phai. Anh là mắt đào bích. Hai chúng mình hoà quện nên nhau. Và tình yêu đâm hoa rực rỡ.

Miên cười khúc khích. Anh ấy nói hay quá, đúng quá, một bài thơ.

Có một cây đào ghép lớn lên mang thế quấn quýt rất đẹp. Anh đặt tên là thế “Nỗi nhớ”. Hai người chăm sóc tỉa uốn cầu kỳ. Nó là biểu tượng tình yêu của họ.

Cây “Nỗi nhớ” đã ra một chùm hoa. Hai người từng đứng lặng ngắm nó vui sướng ngất ngây. Nụ đào chúm chím. Cánh đào rực lên. Những chồi lá biếc long lanh mưa bụi...

Nhưng cũng đã một năm rồi, mối tình đầu ấy tan vỡ. Vì những lẽ thường tình. Nhìn cây “Nỗi nhớ” chỉ thấy gợi buồn. Để làm gì. Năm nay cô đem nó đi bán.

Bán đi nỗi buồn. Quên đi mối tình đầu đau khổ...

... Một người con trai ăn mặc bảnh bao từ phố Nguyễn Du đi lại. Các chủ hàng hoa mời chào xoắn xuýt. Anh đưa mắt nhìn, xét nét.

- Bao nhiêu tiền? - Anh hất hàm hỏi Miên. Miên giật mình đánh thót. Một cảm giác bị phũ phàng.

“Bao nhiêu tiền?”. Mối tình đem bán. Tình yêu thành tiền.

Miên quay đi chỗ khác, hững hờ.

- Không bán sao? - Người khách gặng.

- Có... à... Không... - Miên ú ớ.

Cô không hiểu sao mình lại trả lời thế.

Hôm nay, mình là người đi bán hoa tết kia mà. Cây “Nỗi nhớ” này như muôn vàn cây đào khác trong chợ hoa.

Không biết. Không biết. Chỉ biết Miên thấy vui vui như vừa tránh được một tai hoạ, khi người khách hàng quay đi. Cô tủm tỉm cười ngắm lại cây đào thế của mình. Trời ơi, nó đẹp quá. Bán đi thì tiếc lắm.

Chợ chiều nay không thiếu hoa. Người mua nhiều, người bán cũng lắm. Có hàng đã bán được cả chục cành đào, chậu đào. Nhưng Miên thì cứ dửng dưng. Chiều tối, Miên đem hoa về. Mẹ ngạc nhiên thấy cây đẹp thế mà bị ế.

- Họ trả rẻ quá mẹ ạ. - Miên trí trá.

- Chợ chiều hoa tàn, bao nhiêu thì cũng phải lựa mà bán chứ. Đem về có ăn được đâu.

Hôm sau, 29 tết. Miên lại đem đào đi. Trời nắng hơn hôm qua. Ấm thế này đào sẽ nở nhanh, chóng tàn. Miên thấy buồn. Kiếp hoa ngắn ngủi. Cuộc tình thoáng qua.

Cô ngả nón múc nước hồ, tưới đào. Đất thấm xèo xèo. Đào như tươi hơn.

Khách mua hoa chiều 29 tết khá quyết đoán. Đắt rẻ gì cũng phải có đào ngày 30.

Có một ông khách từ ô tô bước ra. Sang trọng bệ vệ. Nhưng hờ hững và uể oải. Nhìn cây “Nỗi nhớ” như nhìn một vật vô tri tầm thường. Không. Ta sẽ không bán đào cho ông này. Miên tự nhủ và lảng xa. Nhưng chiều nay không thể đem đào về. Phải tìm được người xứng đáng để bán. Một cô gái trẻ mặc váy hoa vàng xán đến trầm trồ thích thú. Xuýt xoa run rẩy. Cô thích cây đào quá. Hơn thế nữa, như cảm thụ được cả vẻ đẹp tâm linh của nó, biết được câu chuyện tình buồn của nó.

Đừng mua... Đừng mua, em gái. Sẽ thành điềm gở cho em. Sẽ ám vào đời em. Em trong trắng hồn nhiên... Đời em phải toàn niềm vui. Cây hoa này là chuyện tình buồn.

Cô gái đã trả một giá khá cao. Nhưng Miên vẫn lắc đầu. Tội nghiệp cô bé hết tiền, không thể trả hơn, quay đi vẫn còn luyến tiếc. Và giận hờn Miên.

Gió hồ ngày một mạnh hơn, bứt đi khá nhiều cánh đào tàn. Chiều sắp hết. Miên lo lắng nháo nhác. Cuối cùng, thì cũng có một người đàn ông đứng tuổi, điềm tĩnh, đôn hậu bước lại. Anh sít lên se sẽ có vẻ tiếc khi thấy những cánh đào rụng. Hãy gửi gắm cây đào cho người này. Trông mặt thì biết, anh ta có vẻ từng trải, không vồ vập choáng ngợp, nhưng cũng không dễ nản lòng.

Bằng trực giác khó giải thích, Miên khăng khăng ý định bán đào cho anh. Không nói giá mà cũng chẳng mặc cả. Anh nâng niu cây đào và cảm ơn Miên. Miên cũng cảm ơn anh.

- Đêm đem nó ra ngoài trời cho hoa lá uống sương anh nhé! - Miên dặn.

Chiếc xích lô chở cây đào đi khuất, Miên bỗng thấy cảm giác trống vắng, bơ vơ. Cô đi dọc chợ hoa lững thững, vô định, chân giẫm lên những cánh đào rụng tan tác hè đường.

Rồi chợt cô trông thấy một thiếu nữ cũng đang bày bán một chậu đào thế rực rỡ xum xuê. Miên ngó trân trân mắt vô hồn.

Không biết cây đào kia có là một chuyện tình buồn hay không.

Đại Yên 4-6-1995










Con nuôi

Chúng tôi đặt tiệc đợi anh Kalích ở nhà hàng Đồng Quê. Anh là khách quý của cơ quan. Có gì đâu, cách đây sáu năm anh từ Thuỵ Điển sang, quen biết thế nào lại xin được từ “Quỹ văn hoá Thuỵ Điển” cho cơ quan vài ngàn đô. Không nhiều, nhưng cũng đủ để dịch in một cuốn sách Thuỵ Điển sang tiếng Việt.

Kalích yêu Việt Nam, nói sõi tiếng Việt. Thích lê la hè phố Hà Nội, uống chè chén, ăn bún chả. Thực tình thì tôi cũng chẳng biết ở Thuỵ Điển anh làm nghề gì. Dạy học, viết văn hay viết báo? Hình như kiêm cả. Nhưng chẳng nghề gì đến nơi đến chốn. Có lần có Đoàn của mấy ông Viện sĩ hàn lâm Thuỵ Điển chuyên xét giải Nôben, nhân đi du lịch Việt Nam, ghé qua cơ quan chúng tôi chơi, anh đi phiên dịch. Thấy có vẻ khúm núm lễ phép với mấy ông kia lắm. Chắc là có khoảng cách xa...

Thế nhưng, chúng tôi quý anh, vì là “bạn bình dân” với nhau. Thân thiết. Anh có thể uống trà ngoài phòng khách cơ quan tán chuyện trên trời dưới biển được.

Lần ấy, cách đây sáu năm, anh tâm sự: Tôi không lấy vợ, sống độc thân, thích có một đứa con nuôi. Anh xin cho tôi một đứa mới đẻ bị bỏ rơi (nghe nói ở Việt Nam có). Tôi đem về Thuỵ Điển nuôi. Rồi tôi lại xin cho anh một khoản “tài trợ văn hoá” như lần trước. Nói đùa thế thôi. Việc nào đi việc nấy. Anh đính chính.

- Đúng. Việc nào đi việc nấy. - Tôi nhắc lại.

- Tôi sẽ yêu quý nó. Chăm chút như chăm chút cây hoa từ lúc mới mọc mầm. Tôi sẽ quan sát quãng thời gian từ hai đến năm tuổi của một đứa trẻ. Tính cách hình thành trong giai đoạn này. Môi trường sống, sự giáo dục trong giai đoạn này có tính quyết định... và... Tôi sẽ viết một cuốn sách đề tài này.

Tôi biết Kalích cũng là một anh gàn. Thích trẻ con sao không lấy vợ, đẻ con... Muốn độc thân để yêu đương tùm lum. Xin con nuôi để “quan sát” viết sách!

Đứa bé sẽ làm cho Kalích đỡ cô đơn. Tôi nghĩ vậy và tích cực giúp đỡ. Cũng chẳng khó khăn gì. Nhiều bà mẹ chửa hoang vứt con lại bệnh viện chạy trốn. Đến đấy mà xin. Nhờ có người quen làm bác sĩ ở Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với Kalích. Anh ôm đứa con đỏ hỏn vài tháng tuổi lên máy bay về nước cứ như ôm một con mèo. Cứt đái vung vãi trên máy bay - Thư anh kể - làm cả “châu Âu” phải kinh ngạc!

Có con, bận rộn, hoặc mải vui với con, sáu năm liền anh không sang Việt Nam. Mãi bây giờ mới có dịp trở lại Hà Nội. Điều lý thú: Sẽ đem theo Mona (tên đứa con nuôi) cho nó lần đầu tiên về thăm quê hương.

Tôi nghĩ lần này anh lại “hoạt động” móc nối xin cho một khoản tiền “tài trợ văn hoá” nào đấy cũng nên. Bạn cũ với nhau mà. Ân tình. Bây giờ anh còn yêu Việt Nam hơn trước. Đứa con thêm đường dây thắt chặt...

10 giờ. Tôi nhìn đồng hồ. Ba cô cán bộ phòng hành chính cùng tôi ra cửa đón. Taxi chở anh đến. Vẫn là Kalích sáu năm trước, mặt rám nắng, hồ hởi, bông phèng, quần áo bò te tướp bẩn thỉu, vai khoác bị cói. “Nhân vật chính” là Mona, anh dắt trong tay. Chúng tôi đổ xô vào nó. Váy trắng muốt như vũ nữ Ba lê cổ điển, hoa cài trên tóc... Nhưng một cảm giác thất vọng trong tôi chợt nhói lên: Đáng lẽ phải là một “tiên đồng ngọc nữ” xinh đẹp, nhưng đằng này Mona trông tối tăm như con nhà mò cua bắt ốc. Tôi gạt ngay cảm giác này qua một bên, hồ hởi:

- Hê lô... baby... gút moning... Baby bautiphun...

Ba cô hành chính cũng suýt xoa vuốt ve nó, nâng niu chào đón như chào đón công chúa Quốc vương Ả Rập.

Nếu là đứa trẻ bình thường nó sẽ cảm động sung sướng, âu yếm đáp lễ các cô, sà vào lòng cho các cô bế. Nhưng không, Mona cau mặt lại khó chịu. Một nét khinh bỉ thoáng qua, vùng tay lên gạt tất cả ra.

Tôi và ba cô hành chính chưng hửng tẽn tò. Nhưng vội phải tỏ thái độ bình thường. Vẫn cười tươi. Đang đón khách quốc tế mà. Riêng tôi vẫn cứ phải nói tiếp câu:

- “Cháu ngoan quá, xinh quá” bằng cả hai thứ tiếng Anh và Việt.

Suốt bữa tiệc, con bé ngồi cạnh bố, không ăn uống gì, vẻ khó chịu.

Tất nhiên là tôi không chấp trẻ con. Tôi và Kalích chúc tụng nhau say mèm, vui nổ trời.

Tiệc tan, Kalích dắt con ra về. Tôi đưa tiễn, hôn vào trán Mona. Nó đưa tay chùi ngoét, kinh tởm. Nhưng tôi vẫn cứ phải cười tươi.

Trở lại phòng ăn, bấy giờ ba cô hành chính mới nhao nhao:

- Con bé nào có đẹp đẽ gì cho cam.

- Tưởng ở bên châu Âu, được giáo dục chuẩn mực, phải biết ngoan ngoãn lịch sự chứ.

- Ông Kalích thí nghiệm phương pháp giáo dục khoa học cho trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi cơ mà.

- Tôi cam đoan ở bên Thuỵ Điển nó không dám hỗn với người lớn như thế này đâu.

- Tại sao về Việt Nam nó lại khinh người thế.

- Không có mẹ từ bé, tưởng gặp chị em mình, đồng loại, nó phải xúc động lắm mới phải chứ. Bản năng tự nhiên của trẻ con mà...

- Nó khinh người đồng loại à? Tại sao nhỉ?

- Hành động ban nãy của nó là do môi trường giáo dục hay bản tính trời sinh.

- Cái con bé con hoang bỏ rơi này nếu lớn lên ở Việt Nam, lang thang la liếm, đói rách chắc không dám khinh người thế đâu. Ở bên Thuỵ Điển chắc nó cũng ngoan ngoãn, lễ phép, dễ thương. Chỉ có về Việt Nam nó mới lên mặt... Hì, kể cũng lạ cho bản tính của con người. Nứt mắt ra đã thế rồi. Đứa trẻ con, chả ai trách gì nó. Nghĩ chỉ thấy buồn thôi.

- Con em mà thế thì em cho ăn roi quấn đít. Một cô nói.

- Khối đứa trẻ con sang Tây làm con nuôi, về Việt Nam ngoan lắm. Trường hợp như con bé này không nhiều...

- Anh xin cho anh Kalích đứa con nuôi chẳng ra gì. Xấu người, xấu cả nết. - Các cô trách tôi.

Sau hôm đó, tôi về hỏi lại cô bạn bác sĩ ở bệnh viện phụ sản, xem bố mẹ đẻ Mona là ai.

- Không phải là loại tử tế rồi. - Cô bác sĩ nói - Dáng điệu phóng đãng và nhẫn tâm, vác cái bụng phưỡn đến đây. Đẻ rồi bỏ đi. Có giời mà biết được bố nó là ai. Đến tên tuổi của chị ta khai trong sổ trực của bệnh viện cũng là phịa láo. Thực ra thì đứa bé chẳng có tội tình gì. Đáng thương. Nhưng tiếc quá nhỉ. Được đem sang Thuỵ Điển nuôi dưỡng hẳn hoi mà sao nó lại hư thế...

Tôi chẹp miệng, cười buồn...




Chuyện xưa...

Cậu Cử Nguyên Phong gọi một chiếc xe tay, kéo nhẩn nha. Chiều tháng chạp, nắng vàng của thế kỷ trước trên nóc phố lô nhô. Xe từ nhà Viễn Đông bác cổ đi về phía Đồn Thuỷ. Ngày Pháp mới đem chiến hạm vào sông Hồng bắn thành Hà Nội, triều đình Huế phải “nhượng” khu đất dọc bờ sông này cho Pháp. Và tại đây những ngôi nhà hai tầng kiểu cách cổ điển Pháp lần đầu tiên được xây dựng theo thiết kế của sĩ quan công chính Varen.

Tưởng chỉ mất vài mẫu “nhượng địa” ai ngờ rồi mất cả nước.

Cậu Cử Nguyên Phong nhớ câu thơ cũ: “Tan nhà căm nỗi câu ly hận - Cắt đất thương thay cuộc giảng hoà” mà thở dài...

Xe chạy lòng vòng qua phủ Thống sứ, nhà băng Đông Dương, khách sạn Mêtơrôpôn... Xe dừng trước Nhà hát Lớn uy nghi dáng nét lâu đài Tuylơri kiến trúc cổ Côranhtơ Hy Lạp. Những công trình thật nguy nga lộng lẫy như mảnh nhỏ Paris ở đây. Cầu Pôn Đume kỳ vĩ, duyên dáng như dải lụa vắt ngang sông Hồng, nhưng sao nước chảy chân cầu mà như sóng trào trong lòng cậu Cử.

“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo

Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo...

Khen ai khéo vẽ cho vui thế

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu”.

Những câu thơ tả hội “Cát tó duy dê” (14/7) lại nhói lên trong ý nghĩ. Cậu Cử nhìn trong nắng vàng hư ảo phủ dáng hình Gô-tích Nhà thờ Lớn mà tưởng tượng mái đao cong cổ kính rêu mốc của chùa Báo Thiên xưa. Nhìn Phủ Thống sứ, nhà Dây Thép bên Hồ Gươm mà thấy chập chờn bóng hình chùa Báo Ân nguy nga bát ngát bao trùm... Những ngôi chùa vài trăm năm cổ đã bị phá sạch trụi để nhường cho những công trình kiến trúc tân kỳ này. Và cả “Thành Hà Nội” nữa. Nơi cấm thành Lý, Trần, Lê ngàn năm thiêng liêng của mình mà giờ chỉ còn chiếc cột cờ phất phơ lá cờ ngoại quốc...

Cậu Cử ngắm tấm thân gầy guộc của anh phu xe. Nhưng người ngồi trên xe cũng hốc hác hom hem không kém. Bởi đó là tấm thân vừa chịu kiếp lao tù khổ sai đập đá ngoài đảo Côn Lôn sáu năm trời mới được trở về.

- Sao anh không ở quê làm ăn mà ra phố xá vất vả thế này? - Cậu Cử hỏi.

- Cháu đâu muốn làm kiếp “ngựa người”. Vợ chồng cháu ở quê chở đò ngang. Bờ dâu, sóng biếc, trăng vàng... đẹp lắm. Nhưng thật không may, vợ cháu có nhan sắc, lại có giọng hát hay, nên bỏ cháu, bỏ quê ra phố làm kỹ nữ, cô đầu, nhà thổ... Cháu lang thang vật vờ ra đây chạy xe lần hồi hòng tìm kiếm “dấu chim tăm cá” của vợ...

Anh phu trông mặt mũi phúc hậu, thông minh, dễ mến. Loại người có thể tin được. Một ý nghĩ loé lên trong đầu cậu Cử: Hay là ta lấy anh này về làm nhân viên cho toà báo “Dân Tiến” của ta!...



** *



Mấy mươi năm xưa, cụ Tú Kép (thân phụ Cậu Cử Nguyên Phong) cấm ngặt thằng bé Phong không được học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp mà cụ gọi là thứ chữ “loằng ngoằng như xích chó”. Phong chỉ được cắm đầu vào chữ Thánh Hiền mặc dù “đồng dao” trẻ con lúc đó đã hát ra rả: “Nào có ra gì cái chữ Nho/Ông Nghè ông Cống cũng nằm co/Chi bằng đi học làm thầy Phán/Tối rượu sâm banh sáng sữa bò”.

Cậu bé Phong may có người mẹ tần tảo trong nghề nhuộm thâm the đũi, có dấn vốn khá, vụng trộm thuê thầy dậy con thêm Quốc ngữ và Pháp ngữ.

Cụ Tú Kép “cố chấp” đến mức không muốn động đến bất cứ cái gì của thằng Tây. Ra đường, cụ theo lối mòn, đồng quê cỏ rậm, lội ruộng lõm bõm, chứ không thèm đặt chân lên đường cái quan rải nhựa của chúng...

Cậu bé Phong đỗ Cử nhân Hán học khi còn quá trẻ. Chức giáo thụ miền núi xứ Lạng đang chờ. Nhưng cậu chối từ. Cậu đi đâu, làm gì, không ai biết. Bạn bè, ông Nghè, ông Cống hội họp thì thào chuyện quốc sự. Rồi một ngày kia, xe của mật thám Pháp về bắt đưa cậu ra toà Đại hình, xử đày Côn Đảo...

Ở tù về, cậu Cử Nguyên Phong cùng mẹ và vợ bỏ nhà quê ruộng cả ao liền ra Hà Nội khuếch trương cửa hàng nhuộm thâm.

Ngẫm nghĩ thời cuộc, cậu đi đến quyết định mở toà báo Quốc ngữ “Dân Tiến”. Bạn bè cậu, nhiều nhà nho “hết thời thi cử” xúm lại viết giúp một tay. Người lo dịch sách Tây Tàu in “phơi ô tông”, người lo viết xã thuyết, người lo phóng sự, minh hoạ tranh ảnh.

Màu nhuộm thâm của mẹ và vợ cậu Cử phen này quyết biến thành màu mực đen in chữ “li tô”.

... Anh phu xe theo cậu Cử Nguyên Phong về làm “tuỳ phái” kiêm kéo xe nhà cho ông chủ bút “Dân Tiến”. Cậu Cử dậy cho anh đúng có ba tháng là đã biết chữ Quốc ngữ (còn học chữ Nho ấy à, hàng chục năm).

Cậu Cử bắt anh đọc “Dân Tiến” hàng ngày. Càng đọc càng vỡ, càng khôn ra nhiều. Rồi đến một hôm cậu Cử bảo anh học thêm nghề thợ in. Máy in hiệu Minerrve đạp chân như đạp máy khâu. Những con chữ chì xếp vào “bát chữ”, bôi mực in lên trên giấy Đáp Cầu. Đem tờ “mo-rát” lên phòng kiểm duyệt xin được con dấu và chữ ký rồi về in ra vài ngàn bản. Trẻ con lĩnh báo đi rao khắp phố. “Tôi là đứa trẻ con bán báo/Khắp phố phường chân sáo nhẩy tung tăng/Cất tiếng rao lanh lảnh vang vang/Tôi đem những món văn chương ra mời khách”. Bọn trẻ của toà “Dân Tiến” tự hào là không bao giờ phải đem báo ế về chất đống. Người ta thích đọc “Dân Tiến”, thấy ở đó những gì hợp với nỗi lòng, ý nguyện của người ta.

Anh phu xe có đâu ngờ mình có ngày lại là thợ nhà in. Ngày xưa in mộc bản, khắc chữ Nho trên ván gỗ thị, in tay được vài chục bản đã là khó khăn lắm. Đằng này đạp chân, báo ra rào rào nghìn bản như chơi.

Nói chứ kỹ nghệ in bây giờ tài thật. Một tờ báo giá vài xu, chẳng đáng bao nhiêu, ai cũng có thể mua được. Đọc một loáng là hiểu hết cả được mọi ý nghĩ tâm huyết của bao nhiêu nhà Nho - ký giả ưu thời mẫn thế, yêu nước thương nhà, dồn tâm sức cho hiện hình lên trang giấy.

- Anh xe này. - Cậu Cử chủ bút Nguyên Phong vẫn quen gọi “tên hiệu” cũ của anh thợ in. - Hôm nay, tôi dậy anh làm ký giả, “viết báo”...

- Dạ, cái gì ạ? - Anh cựu phu xe hoảng hồn - Viết báo phải là các nhà Nho trong bụng có ba bồ chữ, chứ anh thì còn biết cái gì...

- Anh viết lại chuyện đời anh. Yêu nhau, lấy nhau như thế nào. Vợ chồng đò ngang, một thuyền một bến mộng mơ. Cuộc sống đang yên lành, vì sao vợ anh bỏ anh đi làm kỹ nữ, nhà thổ...

- Vì sao? Vì cái đời mới thời Tây bây giờ nó khốn nạn thế đấy cậu a! Đạo đức ngàn năm của ông cha mình đâu có được coi trọng nữa.

- Anh nghĩ thế nào cứ viết ra thế đấy, rồi tôi chỉnh sửa câu văn cho. Câu nói của anh lúc nãy là gần đúng với tôn chỉ mục đích của báo “Dân Tiến” mình rồi đấy...

Anh phu xe thắp đèn đến khuya đúng mười đêm, viết xong cái chuyện vợ bỏ bằng thứ chữ “loằng ngoằng như xích chó” rồi trao cho cậu Cử Nguyên Phong.

- Chà, vài hôm nữa, báo in ra, thằng phu xe này cũng thành ký giả... kém đếch gì ai...

Đại Yên Ngọc Hà 21-12-2010












Quán “Lá thu”

Cũng lâu mới có dịp trở lại Hà Nội. Cuối thu ban đêm đi dọc hàng cây hoa sữa, thấy mùi hương sực nức. Cuối phố này tôi có một địa chỉ quen...

Mấy chục năm xưa, tôi là chú bé nhà quê ra thành phố vừa học vừa làm. Một buổi tối gió bấc đầu mùa, tôi co ro đi lang thang trong mùi hoa sữa. Những hàng ngô nướng đêm sáng lập loè. Gió vi vút. Mùi cà phê ở đâu toả ra ngào ngạt. Ngẩng lên thấy tấm biển “Lá thu cà phê” rọi đèn mờ ấm cúng. Nhẩm tính trong túi còn đủ 5 hào, tôi quyết định bước vào...

Quán nhỏ. Bàn ghế bằng trúc vàng sơ sài. Nhưng giật mình thấy trên vách treo mấy bức sơn dầu của một hoạ sĩ tài hoa tôi hằng ngưỡng mộ mà chưa biết mặt.

- Bác sao có những thứ này? - Tôi hỏi chủ quán.

- Cậu cũng thích tranh à? - Chủ quán, một người vẻ nho nhã tóc hoa râm, mỉm cười.

Tôi ngồi vừa ngắm tranh, vừa rung đùi tận hưởng từng ngụm cà phê thơm ngon. Phải công nhận cà phê của ông tuyệt thật. Vào thời kỳ đó, hình như cả thành phố chỉ có vài quán cà phê thì phải.

Đang lim dim mơ màng để khói cà phê phả mờ trên mặt, thì chợt thấy một người khách bước vào. Chủ quán và ông khẽ gật đầu chào nhau, vẻ quen thân từ lâu. Ông người dỏng cao, gương mặt xanh xao đẹp buồn. Ngón tay thanh tú trắng muốt nâng ly cà phê, mắt trầm ngâm, ông nhìn những chiếc lá vàng bị gió bấc ào ào bứt rơi ngoài cửa sổ. Uống xong, đứng dậy, lặng lẽ đi ra. Không thấy trả tiền.

Chủ quán nháy tôi.

- Cậu biết ai đấy không? Tác giả của những bức tranh kia đấy?

Trời, tôi thảng thốt. Không ngờ vừa gặp được thần tượng của mình. Bất giác nhìn lên, một giây khắc như cảm nhận được tất cả sự huyền bí diệu kỳ của những bức tranh trên vách, mà lúc khác chắc không thể biết được.

- Những bức tranh tuyệt đẹp này, chủ quán nói là tặng phẩm của ông ta cho tôi, để trả ơn những tách cà phê thơm ngon mà tôi đã đãi ông suốt bao năm qua...

Lòng tôi rưng rưng. Chợt nhớ giai thoại Van Gốc vẽ lên gỗ mặt bàn quán trọ để trả nợ.

- Hay có thể nói ngược lại - Giọng chủ quán thầm thì - Những tách cà phê thơm ngon trong những giây phút gió bấc đầu mùa như đêm nay, cùng sự cung kính đối với nghệ thuật của tôi, là để trả ơn những bức tranh tuyệt tác.

Từ hôm ấy, tôi thường trở lại quán cà phê Lá thu mỗi khi túi tích cóp đủ 5 hào. Và tôi thường được ngắm nhìn một ly cà phê bốc khói...

Thoắt cái mà những ngày ấy đã trở thành dĩ vãng xa xôi...

... Tôi hồi hộp dừng lại nơi cây hoa sữa cuối cùng của dãy phố. Quán cà phê Lá thu nhỏ bé, mái ngói rêu mốc đầy lá vàng ngày xưa không còn. Thay vào đấy là một quán bốn tầng sáng choang gương kính và ánh điện màu. Nhưng được cái là vẫn mang tên “Lá thu cà phê”.

Tôi bước vào. Một mình một bàn. Một cô tiếp viên có đôi chân trần trắng muốt mũm mĩm mang chai rượu đắt tiền đến. Tôi hỏi tên người chủ quán cà phê ngày xưa. Cô dẫn tôi lên lầu. Một căn phòng nội thất phương Đông cổ. Một ông già râu tóc bạc đang ngồi uống trà bên giỏ lan tím cạnh song cửa. Đôi mắt sau tròng kính chớp chớp, ông nhận ra tôi, vồ vập thân tình.

- Những bức tranh ngày xưa còn không thưa ông? - Tôi nhìn suốt lượt bức tường.

- Không... - Ông lắc đầu.

- Chúng đâu rồi?

- Chúng đã biến thành toà nhà nhiều gương kính này.

- Ông có nghĩ thế là với sự biến đổi, ông đã gặp thời, gặp vận, may mắn không?

- Không hẳn thế.

Ông già đưa tôi chén trà ngâu thơm ngát. Tôi bâng khuâng chạnh nhớ mùi cà phê trong cái quán nghèo thuở nào.

- Người hoạ sĩ tài hoa xưa có còn đến đây?

- Không. Ông ấy đã mất trước khi được thấy tranh của mình bán được nhiều tiền...

Đêm ấy, uống hết nửa chai rượu do cô tiếp viên xinh đẹp nâng tận môi, tôi loạng choạng đứng dậy ra về.

Ông chủ quán tiễn ra cửa, cầm tay hỏi:

- Tôi nghĩ là cậu buồn và có giận tôi không?

Tôi mơ hồ lắc đầu:

- Không hẳn thế!












Nhường đường

Sớm trung thu, cô dẫn các cháu mẫu giáo đi chơi phố. Một đoàn trẻ túm đuôi áo nhau rồng rắn dãy dài. Hè phố sạch tinh, hàng cây lào xào, những đốm nắng sàng qua tán lá cùng với những chiếc lá thu vàng rơi xuống chân các cháu.

Lũ trẻ như đàn chim ríu ran. Như dây hoa dài rực rỡ. Dây hoa đang hướng theo hàng dọc bỗng chuyển hàng ngang. Lũ trẻ ríu rít sang đường.

Đúng lúc ấy có đoàn xe của một ngài tổng thống đi tới. Tiếng còi cảnh sát hú. Nhiệm vụ của họ là phải dẹp đường nhường lối ưu tiên cho thượng khách quốc gia. Tình huống bất ngờ làm cho những người cảnh sát lúng túng.

Đàn chim non, cái dây hoa dài đang chăng ngang đường nghe tiếng còi giật mình, xao động,...

Ngài Tổng thống vừa từ phương Tây tới. Mấy hôm nay ông đã thấy cái nhìn thu vàng đẹp mê hồn của Hà Nội. Ngài đến đây với sứ mệnh hữu nghị. Và trong lòng ngập tràn cảm xúc mến yêu xứ sở này,...

Cái gì trước mắt kia nhỉ? Ngài Tổng thống nhìn lên. Con đường đầy nắng và lá vàng. Một đoàn trẻ thơ như lũ chim non trông đáng yêu kỳ lạ. Những gương mặt bụ sữa trắng hồng. Những bước chân lon ton.

Ngài Tổng thống không gọi được đúng tên cảm xúc chợt dâng lên trong lòng mình.

Tiếng còi cảnh sát hú hối hả làm táo tác, kinh động lũ trẻ thơ...

- Dừng lại! - Ngài Tổng thống vội ra lệnh cho đoàn tùy tùng.

Ông gỡ cặp kính. Đôi mắt già của ông như có sương thu vừa vương vào.

Đoàn xe nghi thức quốc gia nối đuôi dài đỗ im phắc chờ cho lũ trẻ sang hết bên đường, mới rùng rùng chuyển bánh.

Ngài Tổng thống đưa tay ra ngoài cửa kính vẫy đàn chim non.

Nụ cười trên môi ngài nở giống hệt nụ cười của lũ trẻ.








Hoa Sưa

Vườn nhà tôi có một cây sưa cổ thụ. Cụ kỵ trồng đã mấy trăm năm. Cây sưa âm thầm đứng đó chứng kiến biến thiên gia tộc, cuộc đời. Những thế hệ ê a Tam tự kinh, rồi đến thế hệ uốn lưỡi mỏi mồm đọc “La-đích-tê”. Tất cả đã bay biến vào không gian. Chỉ còn lại cây sưa lặng lẽ đứng đó, chẳng có gì làm suy xuyển được sắc lá xanh tươi.

Mỗi năm, khi xuân về, cây sưa mỉm cười, nở hoa trắng muốt. Lá rụng hết, không còn chiếc nào. Hoa dày xít, trông như một cơn mưa tuyết. Khi “mưa tuyết” tan đi, sắc xanh vĩnh cửu như sự vĩnh cửu của thời gian, sự sống, lại trở lại. Tôi nhìn màu xanh trăm năm của cây sưa thấy lòng bình tĩnh, yên tâm giữa vòng quay cuộc đời.

Cây sưa có số lượng ít, nên không mấy ai biết tới. Đã một đôi lần tôi làm thơ về hoa sưa, gửi đăng báo, đều bị các ông biên tập viên chữa thành “Hoa Sữa”. Cây sữa quá nổi tiếng, hoa thơm mơ mộng, như biểu tượng của mùa thu, tình đầu. Các ông cho là tôi viết thiếu “dấu ngã”, nên thêm vào hộ.

Tôi vẫn ngậm ngùi thương cho “cây sưa”, vì gần kẻ quá nổi tiếng mà thành vô danh.

Vợ và con tôi nhìn cây sưa chiếm mất cả góc vườn, cũng thường chép miệng phàn nàn. Giá là cây nhãn, cây xoài hàng năm có quả mà ăn. Đằng này “cái cây vô dụng”, chẳng để làm gì. Không ít lần vợ tôi định chặt. Nhưng tôi cấm. Nó là biểu tượng của gia tộc tôi.

Câu chuyện tưởng chỉ là thế. Lời chế giễu của vợ con về sự “gàn dở” của tôi chắc sẽ còn tiếp tục, nếu không có sự kiện lạ. Thời gian gần đây, không hiểu vì sao, bỗng nhiên người ta đi lùng mua cây sưa ráo riết. Mua cả cành, cả rễ. Sưa quý như vàng là “đệ nhất kỳ mộc”, bán theo cân. Nghe nói ở đâu đó sưa đã biến thành “gỗ thiêng”, ai có bộ đồ gỗ sưa, thậm chí một mảnh gỗ sưa trong nhà, sẽ luôn gặp may mắn. Vì thế, một cây sưa có giá cả trăm ngàn đô la. Cây sưa vườn nhà tôi được trả giá đủ tiền xây một toà biệt thự lộng lẫy. Cả nhà tôi phát rồ, tưởng ngủ mơ thấy vàng dưới lưng. Bao đời ở ngôi nhà gạch mốc meo, chúng tôi sắp trở thành “chủ nhân cung điện”. Vợ tôi sướng “chết ngất”, nhưng rồi “chết thật” khi tôi tuyên bố:

- Không bao giờ bán cây sưa!

Tôi phải giữ gìn những giá trị tiềm ẩn của người xưa để lại...

Cây sưa của người xưa...

Đại Yên 20-9-2007




Ướt áo

Ngày ấy tôi là cậu bé choai choai. Chưa thể gọi là người lớn vì mặt bụ sữa, nhưng cũng chẳng muốn ai coi là trẻ con.

Mùa hè, tôi về quê ngoại tập vẽ cảnh đồng quê. Nhà ngoại cổ kính, hiên lát đá xanh. Vườn đầy lá khô, ao rộng đang mùa sen thơm ngát. Cả nhà đi làm đồng, một mình tôi ở nhà thường dạo trong vườn suy nghĩ vẩn vơ.

Một hôm đang nắng, trời trở mưa. Những giọt mưa trong vắt gõ lộp bộp trên tàu lá sen và làm rơi lả tả những cánh sen hồng dính đầy nhị vàng. Tôi đứng bên hiên ngắm mưa. Bỗng từ ngoài cổng có một người con gái đội nón gánh đôi thùng đi vào:

- Cậu ở tỉnh về chơi đấy à? - Cô nói - Tôi là hàng xóm vẫn đến nhà ta hứng nước mỗi khi trời mưa.

Cô đặt đôi thùng dưới giọt gianh mái ngói. Cô bảo nhà cô mái rạ không hứng được nước mưa. Mà cha cô thì thích uống trà bằng nước mưa.

Cô gái hơn tôi đến vài tuổi, mặt sáng, mắt đen láy, rõ ràng đã là một người lớn chứ không còn trẻ con như tôi.

Loay hoay hứng nước, mưa làm người ướt đẫm. Khi cô bước lên hè, thì bộ quần áo cộc lụa trắng mỏng tang dính sát vào người, khiến như không còn quần áo nữa.

Nhưng cô thản nhiên, vì dưới mắt cô, tôi vẫn là đứa trẻ con. Cô đứng tựa cửa, mái tóc đen mướt bết vào chiếc cổ cao trắng nõn. Đôi vú tròn căng lồ lộ núm vú đỏ như hoa đào. Thân hình cô tinh khiết nõn nà như bột lọc, làm tôi bỗng thấy ngây dại cả người.

- Nước mưa trong quá cô nhỉ. - Tôi nói.

Cô cười cười, hàm răng đều tăm tắp:

- Cậu về chơi có lâu không? Tôi vẫn nghe bà nói chuyện về cậu luôn, hôm nay mới được gặp.

...Mưa vẫn rơi mù mịt đất trời, như bức màn trắng che phủ ngăn cách chúng tôi với thế giới bên ngoài. Ở đây chỉ có mình tôi với cô. Tôi ngắm cô, thấy trên đời này chưa bao giờ có cái gì đẹp hơn thế.

Hình như chợt hiểu ánh mắt của tôi, cô cúi xuống nhìn thân thể lồ lộ của mình, cười hì một tiếng chẳng biết là e thẹn hay tự hào.

- Để tôi thấm cho cô khô áo nhé!

- Ừ. - Cô khẽ gật.

Tôi run run lấy khăn mặt bông thấm lên người cô nhè nhẹ. Tôi thấm ướt hết chiếc khăn này sang chiếc khác và người tôi thì lẩy bẩy đứng không vững nữa.

Bất ngờ cô đưa tay ôm chặt đầu tôi kéo sát vào mặt mình, mũi chạm mũi, mắt sát mắt cười cười tinh nghịch:

- Anh còn bé lắm!...

Cô đẩy tôi ra:

- Thùng đầy nước rồi, tôi về đây...

Tôi ôm chặt lấy cô, người dán vào người, từ cô truyền sang tôi một cảm giác mát rượi như trăng rằm. Quần áo ướt của cô được quần áo khô của tôi thấm dần, thấm dần.

Cô nhắm mắt để yên. Cho đến một lúc tôi không còn thấy hai núm hoa đào sau áo cô nữa vì áo đã khô.

- Thôi. - Cô lấy trán mình cụng vào trán tôi một cái thật đau nghịch ngợm - Mai tôi mách bà - Rồi giẫy mạnh ra, băng xuống sân, gánh nước ra về...

Ngày hôm sau trời nắng. Rồi nắng nữa. Tôi về tỉnh...

Năm tháng đi qua tôi thành người lớn thật sự.

Tôi đã yêu một vài người con gái. Đã có vợ. Nhưng chả bao giờ tôi thấy một tấm thân nào đẹp thần tiên cùng cảm giác mát rượi trăng rằm mà người thôn nữ áo ướt thuở xưa đã đem lại cho tôi.

Ấn tượng ấy đã giúp tôi vẽ được bức tranh “Thiếu nữ ướt áo” nổi tiếng và vào đời với tư cách họa sĩ. Ai cũng bảo tôi đã lột tả được vẻ trong vắt của những giọt mưa và vẻ tinh khôi của người thiếu nữ.

Bà ngoại tôi đã mất. Nhà cổ thềm đá thì còn, nhưng ao sen vườn cây xác xơ tàn lụi. Thỉnh thoảng tôi vẫn về chơi. Nhưng không bao giờ tìm gặp cô gái ngày xưa mà giờ đã thành người đàn bà nào đó. Cũng như không bao giờ nghĩ đến chuyện để bà nhìn thấy bức tranh “Thiếu nữ ướt áo” của tôi...

Nhà viết Đại Lải 25/11/1945




























Nhà gương

Ông già Thế Hiển đứng trước gương. Khuôn mặt đẹp lão phúc hậu hồng hào. Những nếp nhăn như đồ thị những đoạn đời hằn trên trán. Ông chải mớ tóc bạc, xoa nước hoa lên râu, sửa lại ca vát.

Ông ngắm mình. Đăm đăm. Mắt nhìn vào mắt. Tròng mắt còn trong. Có tất cả những gì là cuộc đời ông hiện hình trong đáy mắt ấy. Ông nhìn thấy được.

- Ông ơi, cháu mặc áo xong rồi... Đi đi... - Bé Hải Anh lon ton chạy đến.

Ông bồng cháu lên. Gương mặt như hoa áp vào mớ tóc bạc. Mặt cháu sáng như tấm gương không vết bụi. Mặt ông đầy nếp nhăn lồi lõm như rãnh cày, như chiến hào.

Ông soi mặt mình vào đôi mắt tinh khôi của cháu. Chân dung ông hiện lên trong đó. Chân dung chân thực nhất!

Hai ông cháu dắt tay thong dong vào công viên. Lá vàng dưới chân xào xạc. Trời cao xanh ngắt. Hồ mênh mông. Ông ngồi xuống ghế đá thúng thắng ho. Đứa cháu chạy lon ton bên hàng rào sắt ngắm đàn chim công chim phượng.

Ông ngồi im, mắt nheo lại, nhìn sóng hồ long lanh dưới nắng từ xa tít tắp từng lớp chạy lăn tăn vỡ tan vào bờ đá. Đời người như những lớp sóng kia. Đến lúc tới bờ là kết thúc. Đời ta cũng sắp đến bờ...

Ông già Thế Hiển thở dài. Cuốn Hồi ký dành riêng cho con cháu như một di sản tinh thần đã viết đến chương cuối. Hồi ký đời ông. Lúc nào ông cũng lo cuốn sách bị bỏ dở, nên đầu óc luôn nghĩ tới. Nhưng điều quan trọng không phải là viết xong mà là viết sao cho trung thực nhất. Để cho con cháu chút chít đọc thấy được chân dung chân thực nhất về ông tổ của nó. Ông chẳng muốn tô hồng. Tô hồng là bịa tạc. Cháu con sẽ chẳng rút ra được bài học đạo lý gì để làm người sau khi đọc cuốn sách đó. Và như vậy cuốn sách sẽ vô dụng.

Đời ông là một cuộc đời đáng nói. Đời tạm gọi là thành đạt. Đời lắm chuyện. Đời được làm nhân chứng cả một vòng quay lịch sử. 80 tuổi, tức là gần một thế kỷ với những làn gió tư tưởng đổi chiều, những giá trị vĩnh hằng và giá trị nhất thời, những lăng kính để biến màu chân lý... Ông đã như thế nào trong những năm tháng ấy, để tồn tại.

Làm sao cuốn Hồi ký của ông không một chữ nói dối. Làm sao vẽ được chân dung chân thực nhất về mình, y như hình ảnh mình trong gương.

- Ông ơi, cháu chán xem chim công, chim phượng rồi. Vào Nhà Gương đi... - Bé Hải Anh gọi.

Ông già rời ghế đá, đứng đậy. Nhà Gương mênh mông. Phòng đầu tiên thật đẹp. Hai ông cháu nhìn xung quanh thấy hàng chục hình ảnh mình trong đó. Tất cả giống nhau như đúc. Thật ngộ, thật vui. Hải Anh reo thích thú.

Phòng hai là phòng gương lùn dị dạng. Hai ông cháu biến thành to đùng lùn tè chiều rộng hơn chiều cao. Hải Anh cười sằng sặc. Ông Thế Hiển khà khà. Phòng ba gương cao. Hai ông cháu biến thành hai cây sào ngất nghểu lả lướt đu đưa. Hải Anh cười lăn lộn. Phòng bốn, gương méo, hình lúc bùng sang bên này, lúc bùng sang bên kia y như tấm khăn trước gió chứ không phải người nữa. Rồi những phòng dị dạng tiếp theo quái lạ, cả hai bị nhào nặn không còn hình thù người. Khi trở ra cửa, bất giác hai ông cháu cùng nhìn nhau xem có còn là người cân đối hoàn chỉnh nữa không?

Ông Thế Hiển đau cơ bụng, đau cơ hàm vì cười nhiều. Tuổi già khổ thế đấy, cười mà cũng sinh đau.

Nắng thu nhạt dần trên các ngọn cây. Bé Hải Anh lăng quăng chạy trước ra cửa công viên. Ông già chống ba toong theo sau, cảm giác thư giãn vui vui. Bỗng ông giật mình đánh thót. Chân dung cuộc đời 80 năm qua của ta đã có những lúc nào dị dạng như trong gương ấy? Có hay không? Phải rà soát lại cuốn Hồi ký đã viết gần xong...

Đại Yên 14/8/1993







Hoa đào năm ngoái

Cuối chạp năm trước, tôi một mình lang thang đi chơi cảnh trung du vùng Lạn Giang. Với tôi, trung du đẹp lắm. Những triền đồi thấp bằng phẳng cỏ xanh mướt chạy dài hút mắt. Tôi mê mẩn như con kiến bơi giữa cỏ. Một chiều, theo đường sỏi đỏ, tôi đến một vùng um tùm cổ thụ. Rẽ lá rẽ cành, trước mắt hiện ra những đoạn tường đá rêu mốc và chiếc cổng thành đồ sộ đổ nát. Tôi ngỡ như trong mơ, sau cổng thành là một vườn đào phai đang độ nở hoa. Một người con gái đang nằm đọc sách trên chiếc võng mắc giữa hai cây đào cổ thụ. Mỗi khi võng đu đưa, cánh đào rụng đầy trên ngực cô cùng trang sách.

Tôi làm quen với cô. Cô chỉ nhà cô khuất sau cây lùm chân đồi. Rồi cô nói vùng đồi này xưa là phủ lỵ của phủ trung du. Cổng thành đá còn di tích đấy. Sách dư địa chí do viên tri phủ ở đây viết là: Thành quách ngày xưa vững chãi, nhiều đời từng là nơi chặn quân phương Bắc xuống. Có những trận lớn, quân ta chém được cả vạn thủ cấp địch. Gươm đem mài mòn cả đá suối.

Phủ lỵ thời bình đông vui buôn bán tấp nập. Có trường Đại tập của cụ Nghè, học trò nơi xa đến học. Có Nhà ả đào, nhiều kỹ nữ xinh đẹp hát hay.

Năm tháng đi qua, từ khi người Pháp nắn đường Quốc lộ vòng ra phía trước, phủ lỵ chuyển ra đấy thì vùng này bị bỏ quên, dần thành hoang phế. Chỉ còn lại mỗi gia đình viên tri phủ về hưu ở lại. Em chính là cháu mấy đời của viên tri phủ ấy...

Cô gái có vẻ đẹp đượm buồn. Đôi má phớt hồng. Hoa đào như lặn vào trong má. Nằm dưới tán hoa đào, mặt em và hoa đào soi bóng sang nhau.

Gió Đông hây hẩy. Mấy con bướm vàng quấn quýt. Những bông hoa đào như những nụ cười đón gió...

... Cuộc sống nơi phố xá trôi qua đều đều chán nhàm. Tròn một năm, tôi giật mình thấy có gì thôi thúc, không cưỡng được, phải trở lại vùng trung du xanh biếc Lạn Giang.

Tôi lại đến chiếc cổng thành đá hoang phế. Hoa đào vẫn y nguyên như năm ngoái, nhưng chiếc võng đay chăng giữa vườn đã mục nát. Gió Đông cũng y như năm ngoái, hây hây thổi. Hoa đào vẫn nở tươi cười với gió.

Một con sóc nâu rón rén đi trên thảm lá khô lấm lét nhìn tôi. Tôi theo mấy con bướm vàng đi về ngôi nhà nhỏ chân đồi. Một bà già tóc bạc đang kéo nước bên giếng.

- Anh hỏi ai? - Giọng bà khàn đục.

Tôi nói tôi tìm cô gái năm ngoái nằm đọc sách ở vườn đào này.

Bà khẽ cười bảo đó là cháu bà. Nó đã về thị xã ở cách đây nửa năm rồi. Bà tặng tôi một cành đào đẹp nhất để đem về thành phố.

Sáng hôm sau, xé lịch ở nhà, thấy tết cũng chẳng còn mấy ngày nữa. Cắm cành đào vào bình, tôi bâng khuâng chợt nhớ mấy câu Đường thi thuở trước:

Tích niên, kim nhật, thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất chi hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Những câu thơ tự thuở nào bên Tầu mà làm tôi cứ tưởng tượng như cảnh ở cổng thành đá phủ Lạn Giang ngày trước. Một chàng thư sinh từ làng quê xa nào đó ngấp nghé lên phủ dự trường Đại tập của cụ Nghè. Bên cổng thành đầy hoa đào, chàng gặp người con gái xinh đẹp. Năm sau, chàng trở lại, hoa đào năm ngoái còn cười gió đông mà người con gái thì đi đâu mất.

Mà những câu thơ cũng thật lạ. Viết ở đẩu ở đâu mà sao cứ làm tôi xao xuyến, tưởng như đang nói cả về tôi bây giờ.

Tôi ngồi im lặng bên cửa sổ, ngắm dòng người náo nức trôi trên đường phố ngập nắng vàng, khe khẽ ngâm:

Tích niên kim nhật thử môn trung...




Ông đồ hay thơ

Ông tôi là cháu nội một viên quan tri phủ nghèo, bị cách chức. Được đi học, nhưng vì trí nhớ máy móc kém nên chữ Hán vào chẳng được bao nhiêu. Chỉ giỏi thơ Nôm. Suốt đời mê mẩn thơ Nôm.

Khoa cử Hán học bãi bỏ tám đời rồi, nhưng nhà Nho làng vẫn mở trường dạy học. Và học trò theo khá đông. Tên trường là Lạc giáo. Học vui, học vui. Đã học thì làm sao còn vui được, đã cốt vui thì chữ làm sao vào đầu được?

Nhưng bọn trẻ lại khoái cái phương châm Lạc giáo ấy. Vì đến trường chúng được tha hồ bơi lội hồ sen, trèo vườn hái ổi, nô đùa như quỷ sứ. Ông không để roi mây trên sập gụ. Vì “Lạc giáo” mà. Con nhà người ta mất bao tiền của đến để nghe giảng chữ Thánh hiền mà ông cứ tựa tráp vuốt râu đọc “Kim Vân Kiều diễn nôm tân truyện” và “Cung oán ngâm khúc”.

Dăm tháng một lần, cô Tú ở phố Phủ lại đến nhà. Cô xinh đẹp, chẳng hiểu vì sao không lấy chồng. Cha cô là ông Tú Kép hay ngồi viết câu đối thuê chợ tết. Còn cô, đi đổi sách. Nghe nói ngoài tỉnh Hà Nội có nhà sách Hàng Gai vẫn in các truyện Nôm. Mộc bản gỗ thị khắc chữ Nôm có chua thêm chữ quốc ngữ cứ to bằng ngón tay út một. Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trừu, Lục Vân Tiên. Rồi thơ sấm trạng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát...

Cô Tú cất hàng của nhà sách Hàng Gai đi bán cho các ông Đồ, ông Tú trong vùng. Bìa sơn đen, giấy dó, khâu chỉ gai, sách bền lắm. Mua đọc rồi, chờ hôm nào cô Tú đến, các thêm ít tiền đổi lấy sách khác mới xuất bản.

Kỳ này đổi thơ Trạng Trình lấy Truyền kỳ mạn lục. Lần sau đổi Truyền kỳ mạn lục lấy thơ Miên thẩm Tuy lý Vương. Cứ thế, lần lượt nhà sách Hàng Gai ra cuốn nào chữ Nôm hay chữ Hán, ông tôi đều được đọc mà không tốn tiền mua mới. Các ông Đồ, ông Tú trong vùng cũng đều thế cả. Cô Tú như con thoi liên lạc giữa nhà sách và các nhà đổi sách cho nhau.

Cô Tú mặt như trăng rằm, nón thúng quai thao, đọc chữ vanh vách trong các cuốn sách chất đầy đôi bồ sơn đen của mình. Ông thích lưu cô lại chơi vài bữa, thết đãi hồng cốm mùa thu, vải thiều, dưa hấu mùa hạ...

Truyện Kiều, ông tôi có thể đọc ngược. Cái gì, ông cũng lấy Kiều ra ngâm vịnh được. Cái giỏ tích thì ông làm sơn then đề bốn dòng:

                Ngỡ rằng bưng kín miệng bình

     Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi

                Long lanh đáy nước in trời

     Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.

Đình chùa miếu mạo chỗ nào cũng có thơ ông tôi đề cả. Đơn giản thì viết bằng sơn, cầu kỳ thì khắc gỗ đá.

Làm chiếc cổng xây cuốn thư bình phong, ông bất chấp mọi tỷ lệ bố cục kiến trúc, chỉ khoái thợ để nhiều mảng trắng rộng cho ông đề thơ. Thơ dày đặc khiến cổng như trang sách mở. Muốn vào nhà ông, phải đứng ngoài cổng đọc thơ mỏi mắt:

Đóng đóng, mở mở tùy ý ta

Tự do độc lập mặc vào ra....

Đó là vịnh cái cổng. Thơ không hay lắm. Chữ mặc chưa chỉnh.

Thơ không hay có làm chết người được không nhỉ? Có làm con cháu đời sau của tác giả phải đi tù thay tác giả không nhỉ?

Có đấy! Đừng bảo tôi xạo, tôi sẽ kể sau...

Bao thế hệ học trò ông tôi sau này đến ngày kỵ thầy, đều họp nhau lại đem xôi gà đến cúng, đọc văn ca ngợi công đức thầy ngân nga thánh thót. Duy chỉ có một câu trong bài Giáo huấn ca mà thầy sáng tác bắt học trò học thuộc lòng, là ai cũng kêu khó thực hiện quá. Đó là câu:

                Thầy rằng: Chức cả quyền to

     Càng giàu sang lắm càng lo vào mình.

Ai cũng khen thơ hay, lời dạy chí lý, nhưng ai cũng mỉm cười lắc đầu.

Bây giờ tôi nói nốt câu chuyện thật mà nghe như bịa. Đó là hồi cải cách ruộng đất. Mấy ông bà cốt cán vừa học bình dân học vụ xong, đánh vần được chữ, thấy cổng nhà tôi có chữ “tự do độc lập mặc vào ra” thì giật mình.

Tự do độc lập là những khái niệm chính trị, theo họ hiểu thì chỉ phe ta bây giờ mới có. Sao đời trước cái ông đồ này cũng đề tuyên ngôn công khai ngoài cổng nhà mình. Tức là ông này trước có hoạt động chính trị cho đảng phái nào đó. Vậy thì đâu phải dân thường. Ông tôi mất đã lâu rồi. Bố tôi bị gô cổ cho lên tỉnh đi tù. Ông chủ tịch tỉnh vốn xưa là học trò ông tôi, biết là oan, nhưng lúc ấy sợ, cũng không dám nói. Kịp có chính sách sửa sai, ông mới thanh minh giúp: Chữ tự do, độc lập là do ông Đồ học trong sách chữ Hán với nghĩa đen của nó, ý ở đây muốn nói tự mình tha hồ ra vào cổng. Chứ ông Đồ xưa có biết chính trị là gì đâu...

Bố tôi được tha về nhà. Sau này thấy tôi tập tọe làm thơ, ông chửi: “Mả bố mày, có làm thơ thì phải làm thật hay, chứ làm thơ dở thì để vạ cho cả đời sau đấy”.





Cuộc chung sống đáng buồn

CCao nguyên mênh mông đầy nắng gió. Dưới bóng đại thụ xanh tươi, muôn loài vui sống. Một ngày kia bỗng xuất hiện một đàn quái vật tiến công. Chúng to lớn khủng khiếp, không có chân, di chuyển bằng cách lê đít trên đất, miệng nhai đất đá ngấu nghiến, san thành bằng địa những gì trên đường đi.

- Đó là khủng long thời cổ đại. - Hổ bảo Voi.

Không. Đó là khủng long thời hiện đại. Chứng cớ là nó luôn đánh rắm khét lẹt, ra khói đen xì làm muôn loài bịt mũi sợ hết vía.

Con người đã tiến vào cao nguyên. Đại thụ bị đốn ngã. Đồi núi san ủi. Họ xây dựng thành phố.

Các loài nhớn nhác gặp nhau.

Sư tử nói:

- Họ sẽ xây dựng những cái chuồng cũi bằng bê tông cao to chọc trời rồi tự nhốt nhau vào đấy. Ngạt thở lắm! Con người họ buồn cười nhỉ! Dại nhỉ! Chúng mình sợ nhất chuồng cũi. Còn họ thì không.

Voi bảo:

- Rừng đại thụ đẹp thế kia, trăng vàng lá biếc mà họ chặt phá hết. Họ tự sát sao? Không rừng, làm sao sống nổi. Con người hoá ra họ cũng ngu nhỉ!

Gấu nói:

- Sau khi san bằng núi đồi suối rừng vĩ đại, trong vườn nhà họ sẽ đắp những hòn núi giả bé tí chỉ bằng bãi phân của chị voi, rồi đắp những con suối cũng bé tí, nước chảy không hơn sư tử đái là mấy.

Thế rồi suốt ngày ngắm nghía gật gù thưởng thức. Họ thả vào đấy những con cá vàng và trồng cây cảnh tí hon. Họ không cảm thụ được cái đẹp lớn lao của núi đồi, đại thụ, thác ngàn. Trình độ thẩm mỹ của họ thật tủn mủn thảm hại.

- Chúng ta ở lại với con người chăng? - Bò rừng nói.

- Không!... Hổ từ chối... Họ sẽ làm những cái lồng sắt nhốt tớ vào đấy cho trẻ con xem. Hoặc giả phanh thây tớ ra lấy xương nấu cao. Còn bộ da thì treo lên tường để biểu thị sức mạnh oai phong. Họ vốn yếu ớt mà, nên họ phải mượn bóng hình tớ để phét lác.

Gấu cười khà khà:

- Còn tớ thì họ sẽ xơi luôn cái mật, chẳng nể nang.

Một chú cầy xạ hương phụ hoạ:

- Em thì quý nhất chỉ có hòn dái thơm. Họ sẽ móc dái em liền.

- Còn lông và đuôi của bọn em sẽ biến thành khăn áo của các bà, các cô ưa làm dáng. - Bọn chồn, sóc lắc đầu.

Tê giác nói:

- Đọc báo thấy nói con người quý tê giác lắm. Có lẽ tớ sẽ ở lại với họ.

Sư tử trừng mắt:

- Cái sừng cậu đáng giá nghìn vàng, nên con người quý cậu là phải. Nhưng họ đâu biết nâng niu cho cậu sinh năm đẻ bảy “bùng nổ dân số” như họ. Họ chỉ chăm chăm chặt phăng cái sừng của cậu để mài nước uống xì xụp.

Muôn loài buồn bã kết luận:

- Không chơi được với con người đâu. Họ đã xâm lược tàn phá quê hương đất tổ chúng ta. Chúng ta đành phải ra đi lên núi cao rừng già mà sống vậy.

Muôn loài gạt nước mắt nối đuôi nhau lững thững ra đi. Giữa đường chúng gặp hai vợ chồng chú chuột ngược chiều nhau.

- Đi đâu? - Cầy xạ hương hỏi.

- Tớ vào thành phố với con người.

Cả bọn cười sặc sụa:

- Chúng tao còn đang bỏ của chạy lấy người đây. Đến chúa sơn lâm còn sợ thọt dái lên cổ, phải ra đi, nữa là thá chuột bọ bẩn thỉu hèn hạ chúng mày...

- Được. Cứ thử xem sao. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào.

Vợ chồng chuột thản nhiên đi tiếp hành trình của mình...

... Thành phố đã mọc lên trập trùng. Trên núi cao, đêm đêm muôn loài buồn bã nhìn về quầng sáng nơi xưa kia là quê hương của chúng...

Một hôm có chú chuột từ thành phố ra chơi. Muôn loài kinh ngạc thấy thằng chuột khố rách áo ôm ngày nào, giờ sang trọng kiểu cách như bậc vương giả.

- Ơn chúa vào đấy chúng tôi đã thành công. - Chuột nói - Chúng tôi đã tìm thấy thiên đường. Ngoài rừng, ăn hang ở lỗ thì vào đấy, chúng tôi ngự trong những lâu đài tráng lệ. Ngoài rừng đói khát thèm từ một hạt cây thì vào đấy ăn toàn bơ sữa, thịt cá, bánh mì. Nhà nào cũng có một chạn đầy thức ăn. Ngay cả đồ ôi thiu của họ vứt đi thì cũng vẫn là cao lương mĩ vị với chúng tôi. No đủ, chúng tôi đã bùng nổ dân số rất nhanh. Dân số thành phố hiện là một triệu người, thì thần dân chuột cũng là một triệu con. Hình như đó là tỉ lệ mà thượng đế đã định sẵn. Người bao nhiêu thì chuột bấy nhiêu. Hiện chúng tôi đã hình thành vương quốc chuột. Hằng năm thành phố họ có bầu cử vì họ theo chế độ cộng hoà, còn chúng tôi thì theo chế độ quân chủ.

Muôn loài không tin ở tai mình. Cái con vật hèn hạ loại bét trong muôn loài mà có lúc lại có thể như thế được ư?

Chúng chỉ biết thở dài ngước nhìn lên hỏi thượng đế mà thượng đế thì chẳng trả lời bao giờ.








Hái hoa hoàng lan

Mấy ông già viết sử nói rằng, khu đất ấy xưa vốn là hành cung của các triều vua thịnh trị Lý-Trần-Lê. Thời gian đã san bằng địa, để lại cái tên Núi Cung chỉ một gò đất hoang bên bờ con sông Tô đã chết.

Nhà tôi ở đấy. Gia tài là một cây Hoàng lan đại thụ cao ngất, tán rộng xùm xoà, hương hoa bay xa cả một vùng.

Mấy ngày một lần, thằng Diễn nhà ở làng phủ Tây Hồ lại đến. Nó đeo cái giỏ mây vào lưng trèo cây thoăn thoắt hái hoa.

- Gái ơi, tao nhìn thấy hết phố Hà Nội cơ! - Đứng trên ngọn nó gọi.

- Mày có thấy Cột Cờ?

- Ngay kia kìa, gần lắm.

Thằng Diễn người lúc nào cũng thơm nức hoa Hoàng lan. Cái áo nó rách te tướp cởi ra cho tôi vá lại. Cái áo cũng sực mùi Hoàng lan.

Bà tôi đem hoa vào phố, đến các chùa Ngọc Sơn, Quán Sứ bán cho người lễ phật. Khi về, bà mua bánh cốm. Tôi với Diễn nằm trên thảm lá vàng nhẻ nhót nhai.

Mấy năm rồi, thằng Diễn đi đâu biệt tăm không biết. Không ai hái hoa Hoàng lan hộ bà. Hoa rụng đầy gốc. Tôi nhặt cho bà đi bán. Nhưng hoa rụng ít người mua lắm. Còn bà thì đã quá già, tay lẩy bẩy cắp không nổi mẹt hoa, lắm khi đổ tung toé trên hè phố.

Mẹ tôi đi đâu vẫn chưa về. Mẹ đi từ khi tôi lên ba. Đi gì mà ghê thế, lâu thế. Tôi thành con gái rồi mà mẹ vẫn chả về.

Sớm nay gió heo may đầu mùa. Gió reo xào xạc trên ngọn Hoàng lan. Tôi quen tiếng xào xạc như lời chuyện trò của nó với tôi trong những đêm thao thức một mình.

Quanh gốc Hoàng lan, hoa rụng lả tả. Tôi đứng ngắm những bông hoa rụng, lòng nghĩ vẩn vơ.

Chợt có tiếng bước chân ngoài ngõ, nhìn ra thấy một chàng trai khôi ngô ăn vận sang trọng bước vào.

- Nghe đồn cô sắp bán cây Hoàng lan. Tôi muốn mua... - Anh ta nói.

- Không... Không bao giờ... Ai bảo anh thế - Tôi kêu lên giãy nảy:

- Cây Hoàng lan này quý lắm. Nó là đại thụ đã mấy trăm năm vốn mọc ở sân cung điện. Bao cung điện các triều đại thành cát bụi cả rồi, nhưng nó vẫn còn. Trong lòng nó có linh hồn một nàng công chúa trú ngụ. Nó chính là nàng Công chúa mượn hình đấy. Mùi thơm ngào ngạt của hoa chính là hương thơm của da thịt nàng...

Tôi bật cười thấy người con trai vui tính. Rồi tôi há hốc mồm kinh ngạc thấy anh ta nhảy phốc lên cây, bám gọn như con bọ ngựa, leo thoăn thoắt. Anh ném hoa Hoàng lan xuống đầu tôi như mưa, tối tăm mặt mũi, không còn lối chạy...

- Gái ơi, tao nhìn thấy hết phố Hà Nội cơ. Cả Cột Cờ nữa kìa! - Trên ngọn cây anh ta gọi.

Tôi khóc oà:

- Trời ơi, anh Diễn! Thế mà em chẳng nhận ra. Sao anh tệ thế. Đi đâu mà chẳng tin tức gì. Tưởng anh không bao giờ về nữa.

Diễn bước xuống chùi nước mắt tức tưởi như mưa thu trên má tôi.

- Về chứ! - Anh nói - Về, để hái hoa Hoàng lan cho em...











Lâu đài hoa Thủy Tiên

Kiến trúc sư Đan Thanh đến thành phố N. vào cuối thu. Một mình dạo bờ biển. Sóng và mây cuối chân trời mù mịt màu khói hương. Mấy năm nay, anh hay nhìn thấy màu sương khói ấy của ký ức.

Đan Thanh thở dài. Nhặt cành củi khô, vô thức anh vẽ trên cát một hình năm góc trong có ngôi sao. Làn sóng đăng ten trắng trào lên xóa hình vẽ liền tay.

Sáu năm trước, Đan Thanh cũng vẽ một cái hình như thế. Thủy Tiên nằm phơi nắng trên cát, chân tay giang rộng trông như bông hoa khổng lồ cánh dài trắng muốt. Biển mon men đến chân nàng rồi lại rút ra xa. Nàng lim dim mắt, mỉm cười lơ đãng.

Thanh ngắm Thủy Tiên. Vóc người nàng cân đối tuyệt hảo. Chiều cao, chiều dài của tay và chân. Tỷ lệ từ thắt lưng đến đầu và thắt lưng xuống chân. Độ thon và các đường cong.

Hình thể vạn vật trên đời sở dĩ trông cân đối hài hòa chính là vì nó được cấu tạo theo một tỷ lệ tạo hình chung mà tạo hóa ấn định. Điều kỳ diệu này người Hy Lạp cổ đại say mê môn hình học đã tìm ra.

Thanh vẽ một hình năm góc lớn, trong có ngôi sao năm cánh đều, rồi bảo Thủy Tiên nằm giang tay giang chân vào đó. Đỉnh đầu, hai bàn tay, hai bàn chân vừa chấm đỉnh năm cánh ngôi sao. Đó chính là một thử nghiệm xác định sự cân đối hình thể của các hoa hậu.

Thủy Tiên cười khanh khách:

- Người em có gì giống hình thù những ngôi nhà của anh vẽ mẫu không?

- Các lâu đài cung điện trên mặt đất sở dĩ đẹp mê hồn là vì nó có một cái gì đó chung, giống với hình thể em.

- Xạo...

- Người Hy Lạp cổ đại đã đem những cô gái đẹp ra đo. Đem chiều cao chia cho chiều dài từ rốn xuống chân họ được một con số, 1.618. Lấy chiều dài từ rốn xuống chân chia cho chiều dài từ rốn lên đầu cũng được con số 1.618. Rồi kích thước nhiều bộ phận trong cơ thể con người đem so sánh với nhau cùng đều là tỷ lệ 1.618 cả. Đó là một phát hiện kinh ngạc. Sự bí hiểm diệu kỳ của tạo hoá. Đem đo bất cứ cái gì có vẻ đẹp cân đối trong thiên nhiên thấy chúng đều cấu tạo theo cái tỷ lệ vàng 1.618 cả. Người Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên đền Pác-tê-nông nổi tiếng với nguyên tắc các bộ phận cấu tạo theo tương quan tỷ lệ l.618. Và đã trở thành mẫu mực kiến trúc cho mọi thời đại. Anh cũng sẽ xây dựng một tòa lâu đài tuân theo tỷ lệ vàng của thân thể em, Thủy Tiên ạ...

Thủy Tiên ngồi dậy dúi đầu Thanh xuống sóng biển sặc sụa:

- Cho hết ba hoa!

Hai người ngồi nhai từng miếng bích quy nhỏ và tu chung chai nước khoáng.

Đan Thanh được người ta thuê vẽ mẫu một dinh thự vĩ đại với yêu cầu trở thành biểu tượng của thành phố.

Hạnh phúc đến với người kiến trúc sư trẻ tài hoa. Nguồn cảm hứng sáng tác diệu kỳ đã làm anh như sống trong thế giới thần tiên. Anh gầy xác đi và lâng lâng như kẻ mộng du. Đêm đêm anh ngồi vẽ miệt mài và chiều chiều lại cùng Thủy Tiên ra biển. Nàng vẫn nằm đó trên cát, trên sóng như bông hoa cánh dài trắng muốt khổng lồ. Còn anh ngồi nhấp từng hớp bia nhỏ ngắm nàng mỗi ngày lại phát hiện ra một điều mới mẻ. Cái “tỷ lệ vàng” không còn là chuyện ba hoa, mà đã trở thành hiện thực công việc.

Anh sẽ xây tòa dinh thự kỳ vĩ kia trên nguồn cảm hứng có được từ vẻ đẹp thân thể nàng.

Anh sẽ noi gương những người Hy Lạp cổ đại khi xây dựng đền Pác-tê-nông. Anh sẽ sử dụng “tỷ lệ vàng” cổ điển.

Vẻ đẹp của đồi “tuyết” phủ và đôi vú kia có gì giống nhau? Sẽ trồng một rặng liễu gợi hình ảnh mái tóc thiếu nữ. Một dòng suối nhân tạo giữa hai bờ đá trắng uốn lượn giống nét lượn của eo lưng nàng...

Thanh đặt tên cho tòa dinh thự là Thủy Tiên. Ký hiệu riêng của anh thôi. Thành phố sẽ đặt tên cho nó bằng một khái niệm chính trị: dinh Hòa Bình, dinh Tự Do, dinh Cộng Hòa chẳng hạn. Kệ họ, với anh, hoà bình, tự do, dân chủ, cộng hòa đồng nghĩa với thủy tiên cả.

Người ta hoài thai chín tháng mười ngày sẽ được một con người. Anh hoài thai ba tháng xong bản thiết kế. Nhưng vào ngày trao bản thiết kế cho người ta thi công, cũng là ngày anh gặp chuyện đau buồn nhất đời: Thủy Tiên đã bỏ anh để đi yêu một người khác đẹp trai và giầu có áp đảo anh.

Thanh đau khổ đến mức rời thành phố N. ngay lập tức, không trở lại, trừ buổi dự khánh thành tòa lâu đài. Nó được đặt tên đúng như ước đoán của anh: “Dinh Hòa Bình”. Tòa nhà được khen là đẹp nhất thành phố. Rặng liễu, dòng suối, bờ đá trắng, “tỷ lệ vàng” cổ điển...

Sáu năm đã trôi qua, nghề nghiệp dẫn Thanh đi khắp nơi trong nước để vẽ thuê những tòa nhà vụn vặt lắt nhắt giống như vài cuộc tình vụn vặt lắt nhắt mà anh trải qua.

Không thể nào còn có được một tình yêu như mối tình đầu Thủy Tiên.

Anh không còn gặp được một cô gái nào có cơ thể đúng khít với tỷ lệ vàng của tạo hóa 1.618 như Thủy Tiên. Người đẹp trên đời ít quá. Nhưng cái đẹp tuyệt đỉnh ấy đã vĩnh viễn chìm vào sương khói mịt mù của ký ức mất rồi.

Thanh lang thang, bơ phờ để cho thời gian trôi trên vai như nước chảy bèo trôi...

... “Xin mời kiến trúc sư tới Dinh Hoà Bình dự lễ tiếp tân...”.

Đan Thanh thắt cà vạt, sửa nếp lễ phục soi gương lần cuối.

Thành phố đã lên đèn. Anh bước chầm chậm dọc đại lộ. Dửng dưng. Những người qua đường không quen biết. Anh muốn coi thành phố này là hoàn toàn xa lạ. Nhưng những gốc cây, góc phố có kỷ niệm xưa đã chống lại anh, làm anh thỉnh thoảng phải bóp chặt lấy ngực như cơn đau tim.

Những pha đèn sáng rực soi tỏ những đường nét hình đồi tuyết phủ (hay hình đôi vú trinh nữ Thủy Tiên năm nào) của dinh Hòa Bình hiện ra trước mặt.

Đan Thanh lững thững bước vào tiền sảnh. Những bóng đèn màu nhỏ xíu mắc trên rặng liễu như mưa sao. Từ trong các xe hơi sang trọng, các quan khách bước ra tấp nập. Thanh bắt tay vài người quen.

Trong đại sảnh đã thấy đông đúc ồn ào. Thanh đi dọc hành lang huyền ảo lộng lẫy. Anh muốn ngắm lại vẻ đẹp của Thủy Tiên, của mối tình đầu.

Người Thanh xâm xấp như sốt. Anh rẽ ngoặt một thang gác khuất nẻo không bật đèn. Ánh sáng dưới vườn hắt lên mờ mờ. Một người đàn bà đang ngồi dùng xà phòng kỳ cọ những viên đá trắng bọc ngoài ban công hình cánh hoa Thủy Tiên.

- Lúc nào cũng phải đánh sạch nhé! - Thanh nói bâng quơ - Cánh hoa Thủy Tiên bao giờ cũng trắng nõn.

Người đàn bà lao công đánh rơi chiếc giẻ. Như điện giật ngẩng lên. Tiếp đến, hộp xà phòng tung tóe. Người đàn bà lao xuống cầu thang...

Thanh sững người. Anh vừa thấy một dáng vẻ lóe lên như chớp sáng trong óc.

- Thủy Tiên! - Anh thốt gọi.

Ánh sáng mờ mờ và các âm thanh mịt mù làm Thanh mất nhanh nhạy. Anh chỉ thấy một bóng người lẩn vội vào vườn cây chạy trốn trong bóng đêm.

- Thưa ông, đừng gọi con bé ấy làm gì - Một người trực điện tay cầm kìm từ phòng xép bước ra, đứng trước mặt Thanh - Nó không còn phấn hương nữa đâu. Thoáng nhìn thì có vẻ đẹp đấy, nhưng lai lịch đâu có ra gì. Tôi có thể giới thiệu cho ông một cô gái tinh khôi, thơm ngát như hoa Thủy Tiên, để ông làm bạn, bạn thôi, nếu ông muốn thế con bé kia đã có chồng, bị chồng bỏ, xin vào đây làm lao công. Nó cùng tổ công đoàn với tôi, tôi biết. Hiện đang yêu đương lăng nhăng năm bảy mối, mà chẳng chắc chắn mối nào...

Đan Thanh thấy cái ban công hình hoa thủy tiên mình đang đứng như có vẻ chông chênh, dễ ngã. Anh thật sự sợ, dịch lui vào.

Anh nhìn mặt người thợ điện chán nản lắc đầu.

Tiếng chuông trong đại sảnh đã reo báo giờ khai mạc.

Thanh vội vã bước tới.

Đại Yên 19-9-1993


















Người đàn bà khoanh tay mỉm cười

Một buổi chiều, họa sĩ Khang dừng chân bên dãy đồi thông non có ngôi nhà chơ vơ nhỏ xíu nơi đầu suối giữa trời đất mênh mông.

Khang đẩy cánh cổng trẻ nhìn mảnh sân đơn côi ngập nắng vàng, đàn gà đang lích chích mổ tấm.

Khang quyết định sẽ trọ lại đây, sau nửa tháng lang thang khắp triền đồi trung du. Anh vừa bắt gặp cảm hứng.

Người đàn bà từ trong khuôn cửa trúc óng vàng bước ra ngỡ ngàng. Chị là chủ nhà, ở đây một mình, và dãy đồi thông non bát ngát kia là của chị. Chị đã trồng nó ròng rã mỗi ngày một ít từ 20 năm nay, để thành rừng cây bây giờ. Rừng là vườn nhà của chị. Hàng ngày chị chăm sóc cho rừng khép tán và trồng thêm nữa, thêm mãi cho kín tất cả dãy đồi trọc mênh mang này. Chị sẽ trồng cho đến hết đời chị và rồi nấm mồ chị sẽ đặt giữa đỉnh đồi thông kia.

Họa sĩ Khang vẽ chân dung chị. Anh đã phải dùng màu sương mai để tô mái tóc. Dùng màu thời gian, màu cô đơn, màu nỗi buồn, màu tuyết trinh vĩnh cửu để thể hiện gương mặt chị.

Chị ngồi đó trắng trong như ngọn suối cửa nhà, bông hoa hồng bạch đẫm sương cầm tay, ánh mắt thăm thẳm trập trùng như rừng thông biếc.

- Anh cứ ở lại đây, vẽ xong tranh hãy về. Tôi sẽ bắt cá suối nấu canh rau sắn anh ăn.

- Cá suối nấu với mướp hương ngon hơn chị ạ! - Khang chỉ giàn mướp um tùm bờ dậu.

Anh bỗng giật mình. Sao mướp xanh tốt thế mà chỉ toàn lá là lá. Cấm có một quả nào!

- Nhà không có đàn ông đến cây cũng không ra quả! - Chị mỉm cười, đùa vui.

Những người đàn ông, nhiều đàn ông lắm, thuở xưa họ đến vùng đồi này tập trận. Ngày ấy, chị là cô gái mười tám tuổi mới đến đây và trồng những cây thông non bé như ngón tay dưới trời nắng chang chang. Mỗi cây trồng xuống, chị cứ mỉm cười một mình, tự đếm ứng với một người lính. Và khi cả rừng thông cao vượt đầu người, mọc tua tủa dãy đồi, chị giật mình trông thấy giống y như cả sư đoàn khoác lá ngụy trang triển khai tập trận. Ngày ấy chị mười tám tuổi, giữa một rừng đàn ông.

Cuộc chiến tranh giữ nước kết thúc lâu rồi. Rừng thông đã khép tán trập trùng, nhưng không có người lính nào về đây với chị. Họ trở lại các làng quê của họ, hay ở lại các thành phố nơi họ giải phóng. Và một số đã ngã xuống. Phải! Đã ngã xuống. Vì thế, nên chị ở lại đây mãi. Một mình.

Họa sĩ Khang nhặt các mảnh sành cắm vào các gốc mướp xanh mập. Anh nhớ lại hồi bé ở quê, bà nội vẫn làm như thế. Những mảnh vỡ sắc nhọn, cứa, chích thế nào đó, giàn mướp lỡ thì bỗng dưng kết quả.

Ít ngày sau khi Khang đi, ngôi nhà của người đàn bà phủ rợp hoa vàng tối mắt, ong đen dập dìu bay lượn. Rồi những trái mướp treo trĩu trịt. Đứng trước hiên, chị khoanh tay, mỉm cười.

15-8-1993

















Chiếc khóa

Trời trở lạnh, cây xao xác, gió bứt những chiếc là vàng thổi bay ràn rạt trên phố. Tôi đi theo những chiếc lá rụng.

- Anh Bình! - Có tiếng gọi.

Tôi bừng tỉnh cơn mộng du. Hôm nay là ngày mặt trăng, mặt trời, quả đất cùng đứng trên một đường thẳng. Thu đang đứng trước mặt tôi tay vén chiếc rèm sa trắng muốt cửa quán cà phê. Nàng đẹp lộng lẫy trong bộ váy màu lá thu.

- Thu thật đấy chăng?

- Lẽ nào không phải em.

Chúng tôi lên phòng khách trên lầu. Cái quán này của Thu có hai cô gái đẹp mặc minijuyp chạy bàn, đông khách lắm.

... Ngày ấy, tôi là chàng sinh viên. Thu là cán bộ kỹ thuật nông nghiệp ở xã. Cô đẹp ghê gớm. Tôi yêu Thu. Chúng tôi đã đi chơi với nhau trên bãi dâu bờ sông một đêm trăng vàng. Đêm ấy, Thu nói trên đời này Thu chỉ yêu tôi.

Lời nói gió bay lên trời. Năm sau Thu đã lấy chồng, lấy một anh thiếu úy đến kỳ nghỉ phép. Cưới xong anh ta lại đi chiến trường. Tôi chui rúc trong cái giường tầng như cũi lợn của ký túc xá sinh viên, chẳng muốn về làng nữa. Mẹ tôi lên chơi nói chuyện. “Người ta vừa phân phối cho cô ấy một chiếc khóa Trung Quốc loại tốt”. Những năm đó hàng hóa hiếm. Chia nhau từ cái kim sợi chỉ. Nhà cửa cần gì phải khóa. Mà cũng không thấy có trộm.

Cái khóa phân cho Thu là có ý nghĩa lắm. Nàng khóa cửa đêm khi đi ngủ. Nàng là vợ bộ đội đi chiến trường. Người ta lo gìn giữ trinh tiết cho nàng. Chồng nàng ra đi vì nghĩa lớn, tất cả phải mang ơn. Ngày tôi ra trường, cũng là ngày chiến tranh kết thúc. Chồng Thu trở về làm giám đốc một xí nghiệp. Họ có con với nhau. Khi con họ lên 5, tôi được tin Thu đã trả con cho chồng, bỏ nhà đi biệt tích.

Chồng Thu lấy vợ khác trẻ đẹp. Anh chẳng làm gì phải buồn khổ.

Nhưng tôi thì bắt đầu khổ gấp bội. Nỗi đau khổ ấy giờ không còn là tội lỗi nữa. Vì Thu là người tự do...

Phòng khách của Thu sang trọng. Nhiều đồ mỹ nghệ quý trong tủ gương. Tôi ngạc nhiên thấy trên nền nhung đỏ đặt trưng bày một chiếc khóa Trung Quốc han gỉ.

- Anh có nhớ đêm trăng vàng trên bãi dâu em nói rằng, trên đời này em chỉ yêu anh.

Tôi khóc nức lên:

- Vậy tại sao hồi ấy em lấy anh ta?

- Em cũng không biết nữa. Chỉ biết rằng, một cái gì như là nghĩa vụ lớn lao đã chi phối, điều khiển em. Nhưng khi anh ta trở về rồi thì nghĩa vụ ấy em không còn phải gánh trên vai nữa. Em được tự do. Em thấy không yêu chồng. Mặc dù anh ấy là người tốt. Và em đi tìm cuộc sống của em.

Tôi bắt đền:

- Sao không tìm đến anh?

- Nhị rữa hoa tàn còn xứng với anh chăng? Em đâu dám!

Tôi chùi nước mắt ráo hoảnh ôm lấy Thu.

- Bây giờ chúng ta cùng trở lại ngày xưa. Em lại là cô gái quê áo nâu non nhuộm bùn và anh lại là chàng sinh viên, mộng mơ chật lèn cái giường tầng sinh viên như cũi lợn... Ôi khỉ quá, lạ quá. Suốt từ ngày ấy đến nay, anh chưa sờ vào tay áo một người đàn bà nào khác. Anh thề đúng như thế đấy!

Tôi gạt đổ lọ hoa, đi loăng quăng như điên.

Thu lẳng lặng nhặt những mảnh thủy tinh vỡ chắp lại. Nhưng không thành. Tay bị cứa chảy máu.

- Đấy anh xem, có được đâu. - Nước mắt nàng ướt hàng lông mi giả cong vút. Nàng đưa tay quệt, máu dây nhòa cả đôi má son làm nó đỏ gắt.

- Anh hãy nhìn váy áo em. Màu lá thu vàng. Tức là sắp rụng. Dòng thời gian chỉ có chảy về xuôi. Làm sao đi ngược? Mấy năm làm chủ quán cà phê kiếm sống này, em đã yêu nhăng nhít bao người. Những cuộc tình như cốc giải khát bên đường bộ hành trưa hè. Nước toàn đường hóa học, chỉ độc chứ bổ béo gì. Đấy, biết chưa, bây giờ thì còn dám lấy trái tim trong trắng của mình ra yêu em nữa không?

Nàng cười khanh khách ghê rợn.

- Hãy nhìn kìa, trong tủ. Cái khóa. Bây giờ nó đã han gỉ, không khóa được nữa. Nhưng một cái khóa khác vô hình lại khóa chặt ngăn cách giữa anh với em rồi!






















Gió trăng chất một thuyền đầy

Đặng đứng ngắm cảnh sương mù phủ đặc mặt Hồ Tây. Sương bảng lảng từng cuộn qua cửa sổ vào nhà nhuộm ẩm lạnh những bức rèm.

Sóng hồ vỗ nhè nhẹ vào kè đá bậc bền rêu xanh. Sương mù như tấm sa trắng diễm lệ phủ lên khu vườn vàng thu.

Đặng nhấp chén trà nóng. Khói trà bay lửng lơ len lỏi giữa những hạt sương li ti. Sương thấm vào mái tóc, màu tóc và màu sương giống nhau. Sương bay như những ngụm mây trắng quấn quýt quanh các gốc cây thế xù xì cổ thụ.

Đặng húng hắng ho, dạo quanh cái “Am Tây Hồ” của mình. Mỗi năm, một đôi lần, khi Hồ Tây có sương mù, anh lại có những phút giây kỳ ảo này. Mắt Đặng ướt lạnh, sương đọng trên mi như lệ, nhìn theo những cánh sâm cầm đập cánh xao xác trên sóng sợ hãi bóng sương dầy đặc, tìm vào vườn nhà anh. Cánh chim run rẩy. Chim cũng như anh, run rẩy cô đơn giữa cuộc đời.

Mười năm trước có một chàng ký giả thích làm thơ, một chiều buồn đạp xe từ phố, lên vùng Hồ Tây ngắm cảnh. Cảm giác lạ lùng đến với anh, khi nhìn trời nước mênh mang, cùng với sự giật mình sợ hãi trước cảnh sống hiện tại, nằm bàn phòng làm việc, ăn cơm dầu ghế, trong cái trụ sở Báo nhỏ bé của mình.

Anh đang buồn. Thật buồn. Anh làm việc không phải là người khôn ngoan và người ta không muốn anh làm nữa. Lấy cớ là năng lực kém. Mà thực ra là vì anh quá chân thật. Anh phải về hưu trước tuổi.

Người ký giả nghĩ đến cái phố huyện có ngã tư rải sỏi bụi mù xe con qua lại, cả hai dãy phố nhà lợp nứa bày bán toàn hàng rởm và ở đó anh có người vợ đang khinh ghét anh. Nàng có thời từng là hạnh phúc của anh. Cô giáo cấp I xinh đẹp đã yêu chàng ký giả tài hoa với mối tình lãng mạn ngây thơ của các cô gái phố huyện. Nhưng rồi đời nghèo ký giả là sự thật phũ phàng làm cô thất vọng. Những món hàng rởm đã giúp cô kiểm được kha khá sau khi bỏ nghề dạy học. Dăm ba cây vàng đủ làm người phố huyện vênh váo. Và cô đã thả sức khinh anh chồng thất thế.

Anh có thể về phố huyện sống với người vợ ấy sao?

Chàng ký giả mất nghề vô tình gặp một ông già chăn vịt Hồ Tây. Bờ hồ góc phía bên này đối diện với thành phố đã là ngoại thành xa lắc đầy cây dại hoang vắng, đâu có dập dìu trai thanh gái lịch dạo chơi như ở phía đường Cổ Ngư. Ông già cô độc sống trong ngôi nhà nát bờ hồ với bơ gạo đong xỉn mỗi ngày. Nhưng ông lão cũng đã già lắm mất rồi và ngôi nhà cũng sắp lở xuống hồ do sóng to gió cả.

Người ký giả mất nghề đến ở với ông, chăm sóc và chôn cất ông khi ông qua đời, đồng thời tiếp tục nghề nuôi vịt Hồ Tây.

Ngày ngày anh khuân đá, như con kiến làm tổ, kè chắn sóng hồ, cố giữ lại cho mình mảnh đất sống không để cho sóng gió cuộc đời vùi lấp. Bụi rậm được phát quang trồng cây cổ thụ. Những quả trứng vịt nho nhỏ hình thành do cua ốc Hồ Tây đã chuyển hóa thành ngôi nhà gạch nhỏ ấm cúng với bậc bến rêu xanh thơ mộng dẫn xuống mặt hồ.

Gió và trăng lồng lộng, trời nước mênh mang làm lòng anh bình lặng trở lại. Không chuyển tải được lòng mình trong trang viết, anh thể hiện nó vào cỏ cây. Những chậu hoa cây thế mỗi năm thấm đượm thêm một chút tâm hồn anh trong đó. Những cây xanh, si quanh vườn xanh tốt như vươn vai, rễ chằng vào hờ kè đá chống lại sóng lở quyết bám chặt lấy cuộc sống. Rồi những con chim, cò, diệc, sáo đá, chìa vôi thấy tàng cây yên tĩnh về đây trú ngụ tránh bão tố phong ba, làm bạn với người chủ cô đơn.

Mấy tháng một lần, anh về phố huyện thăm vợ con. Vợ anh chỉ “bỏ lửng” anh mà không ra tòa ly dị. Nàng nghĩ anh vẫn là một nhà báo, bởi anh giấu biệt chuyện đã thành “người chăn vịt Tây Hồ”. Nàng là người khôn ngoan. Nàng cho rằng ngu nhất là người đàn bà cam phận làm vợ hiền thục của một tên đàn ông. Mỗi người bạn trai của nàng có một ưu thế riêng. Kẻ đẹp, kẻ mạnh, kẻ giầu, người tài hoa, kẻ chức quyền... Nàng, lúc nào cũng chỉ là bạn, là khách, nên tất cả chúng cúc cung tận tụy nịnh hót nuông chiều và bao nàng. Nàng nằm khểnh, buôn bán phất phơ mà trong nhà lúc nào cũng dư dật.

Song nàng vẫn phải danh chính ngôn thuận có chồng là cán bộ nhà nước, có con đàng hoàng, đủ là bộ. Tuyệt gì bằng có chồng làm bình phong để trọn vẹn danh dự đàn bà, nhưng bên trong lại tha hồ thả sức cặp bồ trục lợi. Nàng thông minh thật, biết tìm cách sống tối ưu cho mình. Nàng có quyền được như thế bởi nàng xinh đẹp. Càng vào tuổi trung niên càng sung mãn, béo tốt nõn nà, hấp dẫn.

Về phía Đặng, dù nếm mùi nhục nhã, nhưng cũng chẳng muốn chủ động ly dị. Anh không muốn con anh không bố. Anh không muốn người đàn bà đã từng một thời anh say đắm tôn thờ kia rơi hẳn vào tay một thằng ô trọc nào khác với thế hợp pháp vợ chồng.

Mỗi lần anh về, vợ anh tạm ngưng tiếp các bạn trai trong nhà. Đó là một sự biết điều, tử tế. Nàng mặc bộ áo váy hoa, để trần những bắp tay chân đẹp như đầm cho anh được ngắm nghía cho đỡ tủi.

Anh có “căn cứ địa” là “Am Tây Hồ” và vẫn còn cái danh “nhà báo” nên vẫn cân bằng tâm lý. Thậm chí không phải là không có lúc nhỏ nước mắt trên cánh tay trần của vợ.

Thời gian trôi qua càng minh chứng nàng là người thông minh có cách xử lý đúng tình thế. Bởi sau mười năm khinh ghét ruồng rẫy chồng, một hôm đang ngồi hóng mát ở cửa nhà, nàng bỗng thấy chồng sang trọng khác lạ cưỡi trên chiếc xe máy mới tinh chầm chậm đỗ lại. Nàng không tin ở mắt mình, cho là ảo ảnh. Nàng cấu vào tay đau điếng, vả vào má đau điếng. Khác hẳn bộ dạng nghèo khổ thường thấy, hôm nay Đặng đĩnh đạc oai vệ. Đặng nói rằng, anh muốn đón con ra Hà Nội cho ăn học. Chưa hết, Đặng tặng vợ 100 triệu gọi là đền bù công sức vợ đã nuôi con bao năm nay.

Nàng quỳ xụp xuống chân anh và khóc. Nàng xin anh tha thứ. Nàng hối hận. Nàng hỏi anh làm sao lại vụt giầu nhanh ngủ mơ không thấy như thế. Nàng cam đoan lòng nàng vẫn thương anh nhất. Chỉ vì miếng cơm manh áo thường tình ở đời mà trở thành vô đạo. Nàng công nhận nàng là đồ lăng loàn, đồ voi giày ngựa xéo. Nàng hứa từ nay sẽ trở về làm người vợ hiền như thuở mới cưới.

Tin đồn loang khắp phố huyện như sét đánh giữa trời quang mây tạnh: Nhà báo Đặng bao nhiêu năm chịu khổ chịu nhục, bây giờ đã được cuộc sống đền bù. Cái giá của tri thức, của tài năng là cao thế đó. Đặng cứ để mặc kệ phố huyện đồn đại đủ đường. Nào là anh được quốc tế tặng thưởng về văn hoá. Nào là đi nước ngoài, viết sách báo được nhuận bút. Toàn lời đồn cao sang...

Người chăn vịt Tây Hồ giờ có một căn nhà dưới phố trung tâm, đủ tiện nghi. Anh đã tha thứ cho vợ. Nàng lại trở thành người vợ hiền thục chẳng kém ai. Và nàng rời phố huyện, ra thành phố ở với chồng con. Đặng chặc lưỡi tự nói với mình: “Đời là thế. Đừng trách ai hờn ai”. Hàng ngày Đặng vẫn phóng xe lên cái “Am Tây Hồ” nơi giờ đây đã mọc lên một toà lâu đài bán thủy tọa đẹp mê hồn lẩn trong bóng si xanh. Bên bến đá rêu ướt dẫn xuống hồ giờ có một chiếc du thuyền trắng xinh xắn neo đậu bên “cầu tầu”. Những con cò, diệc, sáo đá, chìa vôi... vẫn về làm tổ trong các vòm cây anh trồng năm xưa. Một công ty Du lịch đã bỏ tiền ra xây dựng tòa lâu đài này trên nền ngôi nhà nhỏ hoang vắng của người chăn vịt năm xưa. Cái địa điểm bên hồ đã trở thành vô giá. Bởi còn gì đẹp hơn một tòa lâu đài soi bóng đáy nước với những du khách đứng trên ban công vuốt mái tóc đẫm sương Tây Hồ.

Anh đã có công khuân từng hòn đá kè bờ, trồng nên rặng cổ thụ để gọi chim về làm tổ. Người ta không quên công anh, anh được đền bù. Anh đã đến với thiên nhiên từ lúc nó còn hoang vắng, nên khi thiên nhiên lên giá anh không chỉ là người chỉ giàu có về gió trăng mây nước. Thỉnh thoảng anh lại ngâm nga câu thơ mà anh đã ngâm lần đầu tiên hôm lên nhà ông lão chăn vịt Tây Hồ “Gió trăng chất một thuyền đầy - Của kho vô tận biết ngày nào vơi...”.

Đại Yên - Ngọc Hà 1994






















Hương ổi

Tôi sực nhớ đến số báo đầu thu sắp tới - Cha viết một bài chăng? - Tôi bảo.

Ông già không nói. Đang nhấp ngụm trà thơm phức mùi ngâu. Hoa ngâu năm ngoái.

Buổi chiều, có Ngân sang chơi. Cô hàng xóm vừa du học ở Australia về. Cho một đĩa ổi chín.

- Cây chặt từ lâu rồi mà - Tôi ngạc nhiên hỏi.

Cây vườn bên ngày xưa, cứ thu về là hương ổi toả sang. Hương nhè nhẹ bâng khuâng. Nhưng tuổi thơ tôi chẳng bao giờ được ăn ổi vườn bên. Tiếng con bé Ngân ríu rít trèo hái quả. Tiếng mùa thu ríu rít. Nhưng cha tôi cấm, không cho sang. Hai nhà không giao thiệp. Chỉ có hương ổi là bay sang.

Tôi cũng chẳng mấy khi gặp mẹ Ngân. Bà đẹp lắm. Đẹp lạ lùng. Nghe nói ngày trẻ, cha tôi yêu bà. Tình yêu từ tuổi ấu thơ có mùi hương ổi. Nhưng mẹ cha không ưng thầy ký nhật trình nghèo, chẳng gả. Cha rủ bà trốn. Bà không dám. Rồi một hôm thấy pháo cưới treo trên nhành ổi nổ tung toé, quả chín rơi lụp bụp. Cha bà nhận chàng trai đang là kỹ sư công chính về ở rể.

Bức tường ngăn được xây cao thêm và lên rêu năm tháng từ ấy. Nhưng hương ổi thu về vẫn cứ bay sang.

Mẹ tôi và cha Ngân cùng mất một độ, cách đây mấy năm. Bà mẹ chặt cây ổi quý nhưng đã cỗi. Tiếng dao chặt gỗ chan chát trong một buổi sớm đầu thu. Cha tôi ngồi bên cửa sổ run run lục tìm những trang viết ố vàng, nhưng vẫn còn thoảng mùi hương ổi tình đầu...

Vậy sao hôm nay lại có những trái ổi đào?

- Em ươm giống cũ trồng mới đấy. Năm nay ra trái bói. Ngân nói.

Tôi cắn trái ổi mùa đầu. Và mời cha một trái. Răng ông đã yếu. Nhưng trái của ông chín mềm...

Đại Yên - Ngọc Hà 12-8-1994
















Đàn sếu trắng

Ngôi trại trên đồi bên dòng sông xanh biếc soi bóng hai hàng phong vàng cổ thụ muôn đời của xứ Nga. Tôi đến đây trong chương trình bảo vệ thú hiếm quý của một tổ chức quốc tế. Vô tình gặp lại Êlêna. Hai mươi năm trước chúng tôi cùng học ngành sinh vật và môi trường ở Mátxcơva. Êlêna vẫn đẹp như xưa, mắt xanh mây trời, tóc rợi vàng như mùa thu Nga.

Chúng tôi chăm sóc 15 con sếu trắng. Một loại sếu đặc biệt. Cả thế giới bây giờ chỉ còn 15 con sếu trắng này thôi. Ngày xưa sếu trắng bay rợp trời. Mùa di cư chúng từ Xibêri giá buốt bay về phương Nam. Chúng qua những thành phố cổ kính mái nhà thờ hình củ hành dát vàng, qua những cánh rừng Bạch dương xanh mướt, những cánh đồng hoa thấp thoáng bóng cô gái Nga đồng quê. Rồi chúng vượt những núi đồi biên giới, qua hết nước này, nước khác, Âu, Á, chả cần giấy tờ gì. Đôi cánh trắng muốt mỏng manh đè gió xuyên lục địa, đậu xuống những vùng đầm hồ đầy nắng.

Nhưng rồi súng đạn của những cuộc chiến tranh lớn nhỏ kéo dài đã làm chúng xảy đàn tan nghé, bị tiêu diệt một phần trên đường đi trong những mùa di trú. Phần còn lại thì khói của nền công nghiệp chưa sạch đầu độc khí quyển, nước thải độc nhuộm đục vùng đầm hồ quen thuộc, cho nên chỉ mới vài thập kỷ, loài sếu trắng đặc biệt này đã gần như bị diệt chủng. Cho đến một ngày kia, lũ trẻ ra sân ngóng bầu trời thu, không còn thấy bóng những đàn sếu trắng bay qua nữa. Người ta giật mình ngẩn ngơ nhớ tiếng sếu trắng kêu xao xác ngàn xưa giữa thinh không.

Và người ta vội vàng lập nên ngôi trại này.

Công việc những ngày đầu của tôi và Êlêna là bay trên một chiếc trực thăng, đi từng chặng theo lộ trình từ phương Nam lên Xibêri. Với tấm bản đồ “Đường di trú của sếu trắng” trong tay. Tấm bản đồ được vẽ bằng trí nhớ của những ông già Nga tóc râu trắng xoá và hát những câu dân ca Nga cổ đến mức giờ chẳng mấy ai còn nhớ nữa.

Chúng tôi chăng lưới, rẽ cỏ thảo nguyên, đuổi bắt, thu gom... suốt chặng đường vạn dặm được 15 con sếu trắng còn sót lại, đem về ngôi trại nuôi nấng.

Trong khu vườn lưới thép giữa đồi, 15 con sếu trắng cuối cùng của thế giới đứng xo ro buồn bã nhớ lại thời rợp trời xanh cánh sếu trắng bay.

Nhưng rồi được chăm sóc đầy đủ, một thời gian sau 15 con sếu trắng phởn phơ quấn quýt bên nhau bắt đầu đẻ trứng nuôi con...

Mấy mùa lá phong vàng rơi, ngôi trại phải mở rộng ra sát bờ sông, mới đủ chứa những lứa sếu non liên tiếp ra đời. Đàn sếu non chiếm lĩnh cả một vùng đồi, nhẩn nha rong chơi, mắt hé nhìn ước lượng trời cao.

Êlêna thỉnh thoảng lại dẫn một đàn sếu non ra sông bơi lội. Nàng vùng vẫy đùa nghịch với chúng. Trông nàng cũng giống một con sếu trắng khổng lồ bơi giữa nước xanh. Khi lên bờ, đàn sếu lại lon ton theo nàng về trại.

Tôi và Êlêna sau mấy năm làm việc đã đến kỳ phải chia tay nhau. Vì tiền tài trợ cho chương trình đã hết, đồng thời cũng đã có thể kết thúc giai đoạn 1.

Hôm ấy là một buổi sáng đầu hè. Đàn sếu trưởng thành được xếp vào những chiếc lồng chất đầy trong chiếc trực thăng Mi - 8 cỡ lớn. Chúng tôi lại bắt đầu cuộc bay về Xibêri theo lộ trình vẽ trên bản đồ của những ông già Nga cổ tích. Vì Xibêri hoang dã mênh mông vốn là quê hương muôn thuở của sếu trắng. Chúng tôi đem đàn sếu non này trả về cho quê hương của chúng. Chúng đã là một đàn lớn có thể quây quần sống giữa thiên nhiên. Cánh đã đủ rộng dài đè mây vượt gió vạn dặm thực hiện những cuộc di trú về phương Nam tránh rét khi Xibêri vào mùa băng giá.

Nhưng đàn sếu sinh trưởng trong ngôi trại phương Nam nắng ấm này, làm sao biết được cái lộ trình vạn dặm kia? Và 15 con sếu già từng một thời tan tác khắp các vĩ độ, liệu trong đầu có còn nhớ được cái lộ trình muôn thuở của tổ tiên?

Nhiệm vụ của tôi và Êlêna là bay từng chặng để hướng dẫn lộ trình cho đàn sếu. Bay đi bay lại đôi ba lần để tạo phản xạ ghi nhớ. Chúng sẽ được làm quen với những đầm hồ, bãi cỏ, nơi tổ tiên chúng từng chọn làm “quán trọ” giữa đường trong mùa bay di trú.

Ai mà biết được chúng có nhớ hay không?

Chúng tôi tin là 15 con sếu già rồi sẽ trở thành kẻ dẫn đường cho cả đàn. Cũng như trong đàn sếu non cũng sẽ có những con thông minh nhất nổi lên thành hoa tiêu hướng đạo.

Bản năng sống chắc sẽ giúp chúng biết đường bay di trú, nếu không muốn chết rét trong băng tuyết Xibêri.

Ngày Êlêna tiễn tôi về nước, nơi sân ga mắt nàng long lanh lệ. Hơn 20 năm xưa, khi chia tay tôi riêng Êlêna chỉ có nụ cười.

Tôi bước ra sân bay chợt giật mình thấy chiếc máy bay trắng xoá kia bỗng hao hao như hình một con sếu trắng. Và tôi ngu ngơ nghĩ đến lộ trình của những cuộc đời...






Đêm hồ Gươm

Bà cụ Thự ngồi xuống ghế đá. Trời đã khuya, sương thu dày nặng làm mờ nhòe những bóng điện quanh Hồ Gươm, trông như những đôi mắt ướt lệ.

Gió lạnh thổi mặt sóng. Những vòm cây trên đầu thì thào.

Bà cụ Thự đưa bàn tay gầy xác lên xoa đôi vai đã đẫm sương của mình. Nhưng bà vẫn không về. Bà nhìn đăm đăm về phía Tháp Rùa đợi một cái gì.

Bà đã quá già 80 tuổi rồi. Già y như cây phượng mà bà đang tựa đầu vào.

Ngày người ta trồng cây phượng này, bà cũng biết. Hôm ấy Bờ Hồ nắng hanh, cái bé Thự 5 tuổi lon ton vầy nước ở đây. Có phu ở Sở Canh Nông đem cây non đến trồng. Nó đứng xem mãi. Buổi tối bên mâm cơm, nó hỏi mẹ: “Bao giờ cây phượng ra hoa?”. “Khi nào mày lấy chồng”. Mẹ nó nói.

- Ngày Thự lấy chồng đúng kỳ phượng ra hoa đầu mùa thật. Hôm cưới, nó mặc chiếc áo dài đỏ như màu hoa phượng. Chú rể - cậu ký tập sự nhà dây thép vận bộ com lê trắng. Hai người chụp ảnh bên gốc phượng.

Cây phượng thành người quen. Chiều hè, hai vợ chồng Thự hay ra ngồi trên ghế đá nơi đây. Hoa phượng rơi, họ đưa tay hứng những cánh phượng mỏng tang như cánh bướm.

Vợ chồng Thự đã nhiều lần trông thấy Rùa Hồ Gươm nổi. Hai người đều yêu quý rùa. Một đêm trăng, đang ngồi chơi, hai người thấy một con rùa vàng sẫm mui to bằng chiếc nong, bơi sát lại, môi đớp đùa rỡn những cánh phượng rơi trên mặt nước.

Thự tin rằng đó là Rùa quý, rùa thiêng, tuổi đã mấy trăm năm. Thự mong gặp Rùa như mong một điều Phúc Lộc.

Thự được toại nguyện, quả nhiên đời Thự thường được trông thấy nó nhiều lần.

Ngày ấy, cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên bay trên Tháp Rùa. Rồi tiếp đến ngày tiếng súng “Toàn quốc kháng chiến” nổ. Chồng Thự đội mũ ca lô gắn sao vàng cố thủ nhà dây thép Bờ Hồ. Anh ấy hy sinh trong cái đêm mặt hồ mù mịt khói súng, để lại giọt máu của anh trong lòng Thự.

Thự thắt lưng cho chặt nuôi con. Khi con Thự trưởng thành, nó lại gắn sao vàng lên mũ và ra đi trong một ngày máy bay Mỹ mang bom gầm rú soi bóng trên mặt hồ lặng sóng.

Thự đợi con mỏi mòn, tuyệt vọng, anh đã ngã xuống vì sự nghiệp thống nhất của đất nước. Ngày Bờ Hồ bắn pháo hoa mừng thống nhất đất nước, bà Thự đứng một mình, tựa lưng bên cây phượng nhú màu hoa chiến thắng.

Bao nhiêu năm trôi qua, trên ngực bà mẹ Thự hôm này có tấm huân chương “Bà mẹ anh hùng”...

Đêm nay, bà cụ Thự ngồi bên Hồ Gươm, như ngàn vạn đêm như thế. Con Rùa mấy trăm năm xưa lại đến. Có phải chính con Rùa này thuở xưa đã ngậm gươm của Vua Lê đem đi...

Bà cụ Thự đưa bàn tay gầy xác lên ngực áo cởi tấm huân chương rồi nhẹ nhàng đặt xuống mặt nước. Một tiếng sóng vỗ nhẹ. Con Rùa Vàng há miệng ngậm tấm huân chương của bà cụ Thự.

Cả vầng trăng bắn toé sau lưng, con Rùa quẫy mạnh, lặn vào ngàn năm lịch sử.

Nhà viết Đại Lải 20/11/1995











Hoa hòe vàng

Mỗi năm, khi hoa hòe nở tôi lại đến phố Hòe Nhai. Dẫy phố còn sót lại những ngôi nhà của thời mới hình thành đô thị. Những mái ngói vẩy cá rêu mốc, những tầng ô cửa theo đúng luật Phong kiến hà khắc “không cao quá vai quan trương đi tuần”. Thời gian như ngân lại, nguyên vẹn màu nắng vàng của bao thế kỷ trước.

Tôi quen một ông đồ già ở đấy. Ông đồ cũng như người sót lại của thời Nho giáo chửa suy tàn. Không vợ con, ông sống bằng nghề bán sách Hán Nôm cổ, cũng bút lông thỏ, mực tàu, giấy Hoa tiên. Thỉnh thoảng nhà Viễn Đông Bác Cổ vẫn nhờ ông dịch hộ các văn bản thời Lý, Trần, Lê với giá rẻ mạt. Ông cũng dịch không lấy tiền giúp tôi nhiều di cảo của các cụ tổ khoa bảng họ nhà tôi để lại. Cha tôi, một ông ký Bưu điện, một chữ Hán bẻ đôi không biết. Nhưng bù lại, ông có công giữ được cả chồng di cảo tổ tiên, qua suốt thời tao loạn. Thật là quý những tờ giấy Hoa tiên vân lệnh đã ngả màu vàng, còn bó tròn nằm nguyên trong cái tráp sơn son thếp vàng khóa bạc...

Mùa hoa hòe, chiều nắng vàng, tôi thường đi tha thẩn một mình dọc phố vắng, bên những bậc đá hiên nhà trạm hoa văn từ thời đất này mới được chọn làm kinh đô, đến thời Rùa vàng nổi lên đòi lại gươm báu ở “hồ Lục Thủy”.

Bậc đá trơ trơ đứng đó, còn những gì dựng xây trên nó thì biến đổi đến mức giờ chỉ còn hồn thu thảo với bóng tịch dương.

Hoa hòe rụng, lấm tấm vàng trên nền đá xám. Tôi lẩn thẩn nhặt những cánh hoa hòe đã rụng nhưng còn ấm mềm nhựa sống. Mấy trăm năm xưa những cánh hoa hòe cũng rụng xuống thềm đá thế này. Những cây hòe xù xì cổ thụ kia đã có mấy trăm năm. Và mỗi độ lại nở vàng rực hai bên đường in bóng giữa trời xanh.

Mùa hoa hòe cũng là mùa thi cử. Con đường phố Hòe Nhai này xưa chính là con đường dẫn đến Thành Nội nơi thi Hội, thi Đình. Các sĩ tử hào hoa, nao nức mộng công danh đi trên con đường rợp hoa hòe vàng trong ngày ứng thí. Cánh hoa hòe mỏng manh đẫm sương sớm rơi trên vai áo thâm hàn sĩ. Người hàn sĩ đưa tay hái một bông hòe vàng nhắm mắt mộng mơ khát vọng kinh bang tế thế.

Không biết người sĩ tử nào đã viết nên câu thơ “Hòe hoa hoàng, cử tử mang” còn truyền tụng đến ngày nay. Câu thơ gợi nhớ mùa thi: Khi hoa hòe nở, lòng người sĩ tử xốn xang...

Bao thế hệ gia tộc tôi xưa đã xốn xang khi thấy hoa hòe nở. Có một vài người đã được xênh xang mũ áo “kiệu anh đi trước võng nàng đi sau” ngày vinh quy bái tổ. Nhưng cũng không biết bao nhiêu người lủi thủi âm thầm nuốt lệ, nhìn cánh hòe rụng thấy nó gợi tả đời mình...

“Hòe hoa hoàng, cử tử mang”. Câu thơ bình dị, chả có gì lạ, mà sao mỗi khi nhớ đến, lòng tôi cũng lại cứ xốn xang, y như các thế hệ tiền bối của gia tộc tôi. Phải chăng có sự di truyền trong dòng ý thức. Tôi cứ phải đến phố Hòe Nhai mỗi năm khi hoa hòe nở vàng, thẩn thơ dạo bước...

...Hòe hoa hoàng, cử tử mang...
















Chim yến bay đi

Ngôi nhà của gia đình tôi ở trên một quả đồi ngoại vi thị trấn biển. Đứng trên hiên nhìn ra, khơi xa mù mịt thấp thoáng những hòn Đảo Yến trong mây!

Những ngày gió to, sóng trập trùng trước mặt, ngôi nhà đầy vẻ hiên ngang trong bão tố.

Đi vài bước là ra đến mép biển. Đi vài bước lại vào đến thị trấn. Cha tôi chọn địa thế xây nhà thật khéo. Chỉ hiềm một nỗi, nhà đang làm đã hết tiền, thành thử bỏ dở lầu hai chơ vơ mấy cái cột đỡ mái bê tông nham nhở.

Chuyện khó tin là cái dở biến thành cái may đến với nhà tôi lúc nào không biết. Những con chim yến ngàn đời ngoài đảo đá, chắc là có một số con quá sợ cảnh khắc nghiệt gió bão biển khơi, đã bay đến trú ngụ dưới mái lầu hai bỏ hoang của nhà tôi.

Những con yến thật đẹp, rút hết tinh lực trong mình nhả dãi đan dệt nên những chiếc tổ chuẩn bị mùa đẻ trứng nuôi con.

Tổ yến là thức ăn ngon đáng giá ngàn vàng. Ngoài Đảo Yến người ta khai thác triệt để. Ổ vừa dệt xong, đã bị giật mất, khiến những con yến đau đớn hộc cả máu tươi ra dệt tiếp ổ mới cuống cuồng cho xong để kịp mùa sinh đẻ. Và rồi Yến Huyết lại có giá trị cao hơn, nên lại bị cướp mất nhanh hơn. Chắc rằng một số con yến nào đấy tuyệt đường sinh sống đã sung sướng phát hiện ra cái mái nhà thanh bình của chúng tôi.

Ban đầu, cha tôi cấm không được hái tổ yến, mặc dầu cả nhà thèm rỏ dãi thứ “tiệc yến” mà chỉ vua chúa xưa mới có.

Đàn Yến ngày một thêm đông, ríu rít sinh sôi nẩy nở. Nhìn đàn Yến từ mái nhà mình cất cánh bay lên trời xanh, chúng tôi sướng vui náo nức.

Thời gian trôi, đến khi đàn Yến đã cân bằng việc dệt tổ nuôi con, cha tôi mới từ tốn hái lượm, mỗi ngày tỉa dăm ba chiếc.

Cả nhà ngây ngất thưởng thức “bát Yến” đầu tiên, thấy cả hương vị biển khơi đất trời trong đó.

Tiền bán Yến dần trở thành nguồn thu nhập khá giả. Cả nhà đổi đời, mua sắm đủ các đồ dùng hiện đại nhất: xe máy dăm ba chiếc, dàn video tối tân, máy vi tính, ti vi, máy giặt, dàn nghe nhạc “hai phai”...

Để rồi tai họa cũng bắt đầu từ đó!

Thằng em tôi choai choai mới lớn, quên phắt những ngày mò ngao nhặt hến thuở nào, giờ vênh vang thả sức ăn chơi. Suốt ngày nó ngồi nghiền băng chưởng Hồng Kông và nghe nhạc Pốp. Dàn loa HiFi mở hết cỡ, át cả tiếng sóng biển rì rào. Nghe nhạc là văn minh. Nhưng cái gì chả phải điều độ vừa phải, đúng lúc đúng chỗ. Thằng em học đòi của tôi đã mắc hội chứng nhạc điên. Nó mở suốt ngày đêm, nhạc gào thét ầm ĩ, tưởng như vôi trên tường cũng phải bong ra.

Cha tôi đã già, không bảo được nó. Nó hiện nguyên hình là một đứa bất trị. Tiền nhiều trong tay, còn biết sợ ai trên đời. Tôi cự nó, nó sẵn sàng dùng quả đấm nếu “Anh can thiệp vào sở thích của riêng tôi”.

Cả nhà thất điên bát đảo vì phải nghe nhạc chung với nó. Mẹ tôi lúc nào cũng nhét hai cục bông trong tai. Ôi, còn đâu những ngày êm ả, tiếng sóng gió rì rào êm dịu, tiếng chim yến ríu rít thanh bình trên đầu.

Tôi ngờ thằng em tôi có dấu hiệu thần kinh. Nghe nhạc kiểu điên cuồng thế này, nhất định thần kinh không thể bình thường. Trên đời này biết bao dạng điên. Đâu cứ phải la hét, xé quần áo mới là điên.

Thời gian trôi, không lâu, một buổi chiều cha tôi chống gậy ra sân nhìn lên lầu giật mình bảo tôi:

- Đàn yến sao thưa hẳn đi thế nhỉ.

Tôi để ý, lo lắng nhìn theo những con yến bay ra biển và buổi tối lo lắng đợi nó quay về. Vài ba hôm, tôi phát hiện ra số bay về chỉ còn thấp thoáng.

Cả nhà kinh hãi không hiểu nguyên nhân vì sao đàn yến ra đi?

Còn vì sao nữa! Thủ phạm chính là tiếng nhạc điên loạn tần số quá cao, âm lượng quá cỡ, đã làm kinh động đàn yến.

Để ý đàn ong trong vườn, khi môi trường có gì khác lạ là chúng thường bốc đàn đi mất.

Chim yến cũng thế mà thôi. Thú thực, đến chính tôi gần đây cũng đã có ý nghĩ phải làm nhà nơi khác sơ tán, không thì sẽ bị mỏi mòn vì bị nhạc Pốp tra tấn.

Đây huống hồ là đàn yến. Tôi nhìn thấy thảm họa mà không có cách nào cứu vãn. Đập cái dàn loa HiFi chết tiệt kia đi thì cũng là quá muộn rồi. Đàn yến đã mất niềm tin...

Chẳng bao lâu, trên nóc nhà tôi đã trống hoang trống huếch, tuyệt nhiên không còn một tiếng chim yến kêu.

Rồi cho đến kỳ thằng em tôi cũng thôi không ngồi suốt ngày nghe nhạc nữa vì nhà đã hết cái ăn...

Nhà viết Đại Lải

23/11/1995








Giấc ngủ

Con ruồi vàng mỏi cánh, tìm một nơi nghỉ. Nó bay vào một tòa nhà rộng mênh mang, mát rợi. Yên tĩnh sạch sẽ quá. Con ruồi vàng đậu vào tấm “ê căng” vải trắng cuối phòng, mắt từ từ khép lại, chìm vào giấc ngủ.

Buổi chiếu phim bắt đầu. Hôm nay, người ta chiếu một bộ phim dài. Phim lịch sử. Lịch sử trôi như một dòng sông. Mỗi tập là một giai đoạn. Chiến tranh, lưỡi gươm đẫm máu nhỏ giọt ròng ròng. Những đoàn ngựa viễn chinh phi như bay. Những đoàn xe tăng gầm thét lồng lộn như bầy khủng long thời tiền sử. Những đoàn máy bay che rợp bầu trời. Bom trút như mưa. Những thành phố tan hoang. Số phận con người quằn quại trên mặt đất... Kiếp con người giẫy giụa giữa sự sống...

... Rượu sâm banh rót tràn như suối. Những buổi khiêu vũ giữa hoàng cung tráng lệ. Những bản đàn như mưa thu thánh thót. Thiếu nữ váy trắng như thiên nga bay lượn. Tiếng ly pha lê chạm lách cách giữa tiếng cười giòn tan.

Thời gian trôi. Những đỉnh tháp mộ cổ bị bào mòn. Những nền triết học hình thành, cực thịnh rồi lụi tàn...

Con người giết nhau bằng cung tên rồi bằng tên lửa. Những quốc gia nhập lại, chia ra, hình thành, tan rã, rồi lại hình thành.

Những cuốn gia phả dày cả gang tay. Tiếng khóc oa oa trong nhà hộ sinh và tiếng kèn đưa đám.

Lịch sử và sự sống trôi như dòng sông dài dặc.

Con ruồi vàng vẫn nằm yên trên tấm ê căng. Tiếng đại bác không đánh thức được nó. Lịch sử trôi dưới đôi mắt nhắm lơ mơ ngạo mạn của nó.

Cuốn phim chấm hết. Đèn bật sáng. Mọi giai đoạn lịch sử đã chấm dứt. Con ruồi vàng tỉnh dậy vừa xong một giấc ngủ.
















Họa mi

Cha tôi mua về hai lồng chim hoạ mi treo trên nhành cây trước hiên. Một lồng nhốt con mái. Một lồng nhốt con trống. Đôi chim màu vàng gio, mắt có vệt lông mày màu trắng nổi bật như nét vẽ. Vẽ mắt - Cha bảo - vì thế nên mới thành tên Hoạ Mi.

Sáng chiều tiếng chim thánh thót réo rắt trong nắng vàng. Cha tôi tay cầm chén trà bốc khói ngồi hàng giờ trước hiên, mắt lim dim lắng nghe, tìm chút cảm giác thư thái thanh bình sau những tháng năm sóng gió mà đời ông đã trải qua.

Tôi để ý đôi hoạ mi không bao giờ đứng yên. Suốt ngày nó nhao lên lộn xuống. Có hôm con trống bấu phải nan lồng sắc cạnh, chân chảy máu mà nó vẫn nhẩy nhót điên cuồng. Máu dính khắp nan lồng. Càng nhẩy càng hót hay.

Tại sao nó nhẩy khiếp thế? Muốn thoát ra khỏi lồng? Con trống và con mái muốn gần nhau?

Chúng bị nhốt riêng hai lồng. Nên cứ húc đầu vào khe nan lồng, hướng vào nhau, nhẩy và hót.

Tôi thương đôi hoạ mi lắm. Một hôm, tôi mở cửa nhốt chung chúng vào một lồng.

Đôi chim ở bên nhau, dụi đầu dụi mỏ âu yếm. Nhẩy ít hẳn đi. Và hót cũng ít hẳn đi. Chỉ thỉnh thoảng há mỏ kêu một vài tiếng ngắn ngủi.

Cha tôi bảo:

- Nuôi hoạ mi là cốt để nghe tiếng hót. Tiếng hót của nó hay lạ lùng không loài chim nào sánh kịp. Nó quý giá là vì thế.

Nhưng muốn để cho nó hót thì phải nhốt riêng trống mái. Chỉ nhìn thấy nhau mà không gặp được nhau. Hót chẳng qua là tiếng ngân nga gọi nhau, quyến rũ để được gần nhau. Tiếng hót giống như sắc màu rực rỡ và hương nhị ngát thơm của bông hoa để quyến rũ ong bướm...

Đôi chim lại bị nhốt riêng. Cha tôi rót chén trà bưng trên tay ra hiên. Ông lại lim dim mắt để đợi chờ cảm giác thư thái thanh bình. Trong lồng quả nhiên con hoạ mi trống lại bắt đầu vùng vẫy hướng sang lồng con mái. Và lại ngửa cổ réo rắt khắc khoải gọi bạn. Nhìn thấy nhau mà không được gặp.

Đại Yên - Mùa xuân Bính Tý






Chim Varônna trên tuyết

Khách sạn Ôctankinô năm ấy, tôi đến Mátxcơva vào những ngày cuối cùng của mùa thu vàng. Nắng chỉ còn rơi rớt mong manh run rẩy...

Chim gì kêu “quà quà” trên những cành phong đang lả tả rơi lá vàng. Chúng từ những khu rừng Nga xa xôi đến đây thản nhiên chiếm vườn phố xá trú đông. Thân hình thon thả, màu xám, cổ có khoang trắng, cánh xập xoè, trông thật đẹp.

Nhưng tiếng kêu thì thật buồn “quà quà”...

Tiếng kêu làm tôi thấy mình tưởng như đang ở trong cái quán trọ ủ dột ngoại ô hay tả trong truyện ngắn Sê Khốp.

- Chim gì đấy? - Tôi hỏi người phiên dịch.

- Quạ đấy mà, anh không biết sao?

Không. Quạ màu đen nhánh, tiếng kêu nghiêng về dấu nặng. “Quạ quạ...”. Chim này thanh thoát, đẹp hơn nhiều. Chỉ tiếng kêu gần giống quạ, nhưng nghiêng về dấu huyền.

Không thể lấy tiếng kêu xấu đặt tên cho cái thân hình đẹp.

- Tiếng Nga gọi là chim gì?

- Varônna.

Ừ có thế chứ. Varônna, cái thanh âm nghe du dương làm sao! Chim Varônna đậu trên những cành phong vàng, một bài thơ, một bức tranh tuyệt mỹ! Không tả tiếng kêu, quên, lờ tiếng kêu của nó đi...

Sáng nào cũng vậy, tôi lấy bánh mì bóp vụn ném cho những con chim Varônna xinh đẹp. Rồi một buổi, những tia nắng thu cuối cùng đứt hẳn và những bông tuyết đầu trắng tinh như những cánh hoa mận rơi lả tả trên lớp lá phong vàng đã phủ ngập mặt đất.

Những con chim Varônna nhẩy nhót, mổ hạt tuyết mát lạnh, xập xòe như múa. Và lại cất tiếng kêu “quà quà, quà quà”...

Tôi đã ở đây mấy tuần. Tiếng “quà quà” đã quen tai. Bất giác bây giờ tôi bỗng thấy cái âm thanh ấy cũng không đến nỗi nào. Sao cứ nhất thiết bắt chim Varônna trên tuyết phải ngân nga thánh thót như chim vàng anh nhỉ?

Đại Yên 21-9-1993








Ngõ Trạm

Phố Ngõ Trạm nơi tôi ở. Cái tên phố gợi cảm xúc hoài cổ bâng khuâng. Tôi tưởng như nhìn thấy đâu đây những người phu trạm thời xưa, nón dấu cắm lông gà, tay cầm phong văn thư gắn si và những con ngựa đưa thư mình phủ bụi dặm đường thiên lý. “Giờ đây phu trạm vừa đem / Lá thư anh gửi mừng em lấy chồng”. Thơ Vũ Hoàng Chương đấy! Chứ phu trạm sao có gì gợi cảm. Người phu trạm, người kỵ sĩ bóng in phía chân trời xa lắc. Nơi gia trang sơn cước, có nàng tiểu thư đang đợi người phu trạm kinh đô đem đến tin mừng.

... Anh là trai Ngõ Trạm

Thư tình e ấp chửa trao

Tôi sẽ viết. Và gửi cho em - người con gái tôi yêu ở ngõ Tạm Thương, rất gần Ngõ Trạm.

Ngõ Tạm Thương! Lại cái tên phố đến nao cả lòng.

Sao chỉ là Tạm Thương

Mà chẳng là thương hẳn

Nhất định câu thơ sẽ là như thế.

Bâng khuâng hàng tháng, tôi đã làm xong bài thơ nhan đề “Anh là trai Ngõ Trạm, em là gái Tạm Thương”. Nhưng tôi muốn em đọc thơ tôi, đăng trên mặt báo lớn kia. Tình yêu riêng mà có bề dầy tình xứ sở.

Tôi đến Toà báo. Ông biên tập viên đã già, da đỏ hồng đẹp lão. Tôi hơi lo. Lớp người như ông sao hiểu được thơ tình trẻ.

Ngồi bên bàn nước, ông lặng lẽ đọc xong rồi bảo: Bài thơ có cảm xúc. Nhưng cậu hơi lầm lẫn.

Cậu hiểu chữ “Tạm Thương” là tạm thương yêu một cách thơ mộng thế này là sai. “tạm thương” chữ Nho nghĩa là cái kho tạm thời. Nguyên do là vì thời trước ở đây có một cái nhà kho. Kho tạm thời. Dân các tổng đem thóc lên nộp thuế thường phải qua viên Giám ty (thủ kho) kiểm tra kỹ càng. Thóc chưa đạt tiêu chuẩn đăng trường (tức là nhập kho chính thức) phải cất vào kho tạm để sàng sẩy, lọc lựa, chờ lần sau. Tạm Thương - Kho tạm dần thành địa danh ngõ phố.

Tôi ngồi chết ngã ngửa người, mặt đỏ dừ xấu hổ.

Ông biên tập viên thủng thẳng:

- Quanh Tạm Thương có một lớp đàn bà con gái làm nghề đổ thóc vào, xúc thóc ra, sàng sẩy thuê cho người nộp thuế. Chúng đặc biệt lưu manh. Tha hồ ăn cắp ăn nẩy, bớt xén rồi đổ trấu vào cho đầy. Đợt đăng trường sau, thời hạn cấp bách, dân các tổng nộp thuế, thóc trong tạm thương bị hụt, lại phải mua của chúng bù vào. Mua chính số thóc chúng đã ăn cắp của mình.

Bọn đàn bà con gái này đặc biệt chanh chua chỏng lỏn nổi tiếng. Thời ấy nói đến “gái Tạm Thương” ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Dần dần thành phương ngôn “gái Tạm Thương” là ngụ ý gái lưu manh.

Thế mà cậu làm thơ gọi người yêu cậu là “gái Tạm Thương”.

Ông biên tập viên cười khì khì. Nghe tiếng cười của ông tôi chỉ muốn chui xuống đất.

Ông biên tập viên nhìn tôi ái ngại:

- Lại còn “trai Ngõ Trạm” nữa, cũng là cả một điển tích. Bọn phu trạm thời ấy ở đây phần lớn là tuyển từ bọn con trai khoẻ mạnh, táo tợn, côn đồ. Ngày ngày chúng chầu chực ở Nhà Trạm để chờ có công văn thư từ thì hoả tốc lên đường. Trong lúc chờ đợi, chúng bài bạc, sát phạt đánh lộn và hút sách bê tha. Bọn “trai Ngõ Trạm” xứng đôi vừa lứa với bọn “gái Tạm Thương”. Hai ngõ phố gần nhau, chúng mèo chuột đĩ bợm. Tình yêu của chúng là thứ tình của bọn côn đồ điếm đàng, nổi tiếng đến mức cũng thành phương ngôn. Có thể ở thời điểm khác có những người phu trạm tốt, nhưng phương ngôn “trai Ngõ Trạm, gái Tạm Thương” là để chỉ loại ấy...

Tôi ngồi bàng hoàng, mồ hôi ra như tắm. Thơ ơi là thơ, có khổ tôi không. Bây giờ tôi mới biết là còn dốt lắm. Tôi đã đọc sai “ký hiệu”. Mấy cái từ như có ma lực mộng mơ kia mà nghĩa thực và sự tích thì sao lại trớ trêu thế này...

Đại Yên, 18-6-1995










Điếm vè

Cụ Tú Đại Yên đỗ thi Hương khi tóc còn để chỏm. Ngày ấy, cụ đeo lều chõng đi bộ một mạch từ nhà ra Cửa Nam thành Hà Nội đến bãi Trường Thi. Làng Đại Yên của cụ chỉ cách di tích các cung vua Lý, Trần, Lê một kilômét, nhưng khuất nẻo, đến bây giờ vẫn nguyên dạng là một làng quê tịch mịch.

Cụ Tú chả biết có bí quyết gì mà cứ vuốt râu sống ung dung trường thọ từ thế kỷ tao loạn trước vắt sang thế kỷ tao loạn này. Cụ là một cái nhà “tàng thư” sống, chuyện gì cũng biết. May mắn cho tôi được là hàng xóm Cụ, luôn luôn được sang cái “gia viên” mênh mông của Cụ thưởng nguyệt, ngắm hoa, đàm đạo thế sự, văn chương... Cũng như mỗi khi có gì khó xử trong đời, lại mong ở Cụ một lời giải đáp sáng suốt.

Mấy hôm nay, tôi đang buồn. Quả thực buồn. Và hoang mang, ngồi uống trà ngâu với Cụ bên hòn non bộ mà bụng dạ cứ để đâu đâu. Nửa muốn giấu Cụ chuyện này, nửa muốn bộc bạch. Bộc bạch để xin một lời khuyên. Nhưng nếu thế thì nỗi đau của tôi bị lộ. Còn đâu là niềm kiêu hãnh. Xưa nay Cụ vẫn trọng tôi vì tôi là một nhà báo dũng cảm, dám phanh phui nhiều vụ bê bối của các quan tham to đầu, phê phán mặt trái tiêu cực trong xã hội.

Tôi nổi tiếng là nhờ những bài ấy. Nhưng đồng thời vì nó mà bây giờ tôi đang gặp hiểm nguy, thiệt thòi trong đời thường, càng nghĩ càng “ngấm đòn”. Ngấm đến mức tôi đang tính chuyện thoát lui. Tại sao tôi cứ phải say mê với những thiên phóng sự nẩy lửa kiểu ấy. Sao không chuyển qua viết những bài vừa cung cấp kiến thức, vừa giải trí, đại loại ví dụ “Bí mật kho vàng của Ngân hàng New York” hoặc “Thâm cung tình sử hoàng gia Anh”, vân vân và vân vân...

Tư liệu báo chí nước ngoài đầy. Ai cũng thích đọc. Nhuận bút cao. Lại chẳng ai làm rầy rà mình. Tại sao tôi cứ phải rúc đầu vào bức tường đá?

Nếu tôi nói ra điều này liệu Cụ Tú có chịu cảm thông.

Chén trà ngâu bốc khói thơm nức trong sương. Nghe tâm sự của tôi xong rồi Cụ Tú chẳng nói gì. Kịp đến lúc có bông hoa quỳnh vừa nở thơm ngát dưới trăng, hai ông cháu ngây ngất ngắm hoa.

Sáng hôm sau, Cụ gọi một chiếc xích lô gọng vàng, bảo tôi dạo phố. Trời thu mát dịu. Hai ông cháu đi theo đường Cột Cờ nơi chính xưa Cụ từng vác lều chõng qua đây. Cụ chỉ xế cửa Bộ Ngoại giao, bảo xưa đó là Võ Miếu và cây đa nơi quan Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết.

Xe qua Hàng Bông rẽ lên Hàng Đào. Hàng hoá ngập tràn lấp lánh rực rỡ. Trai thanh gái lịch dập dìu. Đến chỗ rẽ vào Hàng Bạc, Cụ Tú dừng lại vuốt râu ngắm nghía. Ở đó là mấy tiệm vàng, tiệm hàng điện tử lộng lẫy. Cụ muốn mua một chiếc đầu video chăng.

- Không! - Cụ lắc đầu - Anh giáo này! - Cụ vẫn gọi tôi như thế. Đó là nghề ban đầu của tôi.

- Chính chỗ này hồi đầu thế kỷ có một cái nhà tre lợp lá có lính gác, gọi là cái Điếm Vè. Là vì nhà làm để dân “Kẻ chợ” đến dán những bài vè lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn cho thiên hạ đọc.

- Thế ạ! - Tôi reo lên thích thú - Lại có như thế thật hả Cụ.

- Thời ấy làm gì có báo chí. Mà người ta thì có bao điều muốn nói cho bàn dân thiên hạ tỏ tường. Chỉ có vè là dễ lưu truyền. Những câu ngân nga có vần dễ thuộc. Về ở xứ ta ngày xưa chính là báo chí, là đài phát thanh đấy. Tục lệ dán vè có từ cổ xưa lắm. Làng quê nào cũng có. Một cô gái chửa hoang. Thành vè. Một lão cường hào kỳ mục ăn đút của dân cũng có vè. Dán ngoài cửa điếm, cửa đình, cổng làng. Cả làng truyền tụng nhau ngay. Chả biết ai sáng tác. Và đố ai dập tắt, bắt người ta phải quên đi những câu vè “Trăm quan có mắt như mờ. Để cho Huy Quận vào rờ Chánh cung”. Vè cả phủ chúa cung vua đấy... sợ gì. Dân mà... Cho nên cái Điếm Vè của đất Hà Thành này ngày xưa là hay lắm, nó chính là trụ sở Tòa báo, bản đài. Chả biết ai là người dựng lên nó. Để cho bất cứ ai cũng có thể đến dán vè, đọc vè. Hồi bé ta nhớ, ta cũng đã có lần đến đây đọc vè. Mà lạ lắm, giống vè thường đọc cái là đã nhớ ngay.

Cụ Tú Đại Yên nheo nheo đôi mắt già đã hơn trăm tuổi. Theo ánh nhìn của Cụ, tôi tưởng tượng như trước mắt, những tiệm vàng và điện tử kia mờ chìm đâu mất, để lộ ra một cái điếm gianh với người lính đội nón chóp đen, áo nâu đỏ, lưng thắt bao vàng cắp giáo đứng canh. Trên vách tre dán đầy những bài vè chữ quốc ngữ viết bằng mực tím, chữ Nôm viết bằng mực nho. Những người dân kẻ chợ của Hà Thành đầu thế kỷ, áo dài thâm, đàn ông tóc búi tó, đàn bà vấn khăn nhiễu, đang bụm miệng cười khúc khích đọc những bài vè vần điệu vui tai. Vè chửi một ông quan tham vơ vét của công, ức hiếp dân đen. Vè tố cáo một cô tiểu thư con nhà gia giáo mà chửa hoang vụng trộm “tra con”. Vè kể nỗi lòng của người oan khuất không biết nói cùng ai. Vè chế giễu kẻ lố bịch rởm đời. Vè đả bọn vô luân bại lý. Những lời vè cay độc và thống thiết...

À thì ra từ ngày xưa người ta đã như thế rồi chứ phải đâu chờ đến có trang báo, làn sóng phát thanh mới biết phê phán phanh phui cái xấu, dựng xây cái tốt. Chả lẽ đến bây giờ, thời nay có những phương tiện hữu hiệu gấp ngàn lần cái Điếm Vè kia, thì tôi lại rút lui không làm nội dung ấy nữa?

Những người làm vè kia ngày xưa có ai trả lương và sự hiểm nguy chắc chắn là phần “thù lao nhuận bút”! Vậy mà tại sao họ vẫn làm.

Tôi đứng lặng. Trên mảnh đất kinh kỳ, chỗ nào cũng có sự tích, sao Cụ Tú Đại Yên hôm nay đặc biệt giới thiệu cho tôi di tích Điếm Vè?

Có ngẫu nhiên không? Hay đó là lời nhắn nhủ tôi hãy vững vàng với sứ mệnh của mình.

Đại Yên, 16-6-1995

















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét