Tháng giêng rộng dài câu Quan Họ

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

van

vvvvvvv
Quả chua
L
âu lắm anh mới trở lại đây. Bây giờ đang là tháng chạp. Nắng hanh vàng hoe như ngân lại màu hoa hòe trên các tàng cây xanh. Những quầng bụi hồng tựa làn khói cuộn lên sau các bánh xe. Hạt bụi li ti nhẹ đến mức không rơi được cứ bay lửng lơ trong nắng. Con đường đỏ au trước mặt hết lên dốc lại xuống dốc. Tiếng gà gáy kêu bên bụi sim mua. Tiếng tắc kè trong hốc cây già. Trên sườn đồi những người đàn bà đội nón lá già màu gốc rạ đang lúi húi hun cỏ. Ngọn khói xanh biếc trong chiều nắng vàng bay vút lên như một ngọn cây.
- Này em, gió bấc chưa thổi sao đã thái sắn phơi - Anh hỏi một bé gái bên đường. Đứa bé đang đặt những lát sắn như đồng bạc trắng giăng kín bờ cỏ.
- Nắng hanh cũng mau khô.
- Gió bấc mau khô hơn. - Anh cãi.
Em bé định nói tiếp câu gì nhưng anh đã cho xe lao vút đi. Bánh xe anh lướt bên bánh xe trâu lọc cọc ì ạch ngược chiều. Một cơn lốc nhỏ bất thần cuốn bụi đỏ trước mặt. Cơn lốc có hình thù đúng như một ống quần lụa hồng khổng lồ, rỗng giữa, nắng hanh vàng rực bị quây trong đó. Tiếng cơn lốc xiết bên tai vu vu. Anh đợi nó đến gần để nhập vào, biết đâu chả có thể bay lên được theo nó - Anh bỗng nghĩ vớ vẫn. Nhưng cơn lốc tránh xa. Nó đi đường của nó. Anh đi đường của anh.
*
*    *
- Đến tháng sau Trưởng ty của chúng ta về hưu.
- Thật không?
- Chính tôi đã được xem quyết định.
T. đứng dậy mở tủ pha trà, lấy thuốc lá. Ba người bạn của anh ngồi quanh chiếc bàn véc ni bóng nhoáng. Một người cao gầy ở phòng Lao động tiền lương. Một người to béo ở phòng Tổ chức. Một người ngăm đen ở phòng Kế hoạch.
Cánh cửa phòng “kỹ thuật trồng trọt” được khép lại với tấm biển treo ngoài “Đang họp miễn vào”.
- Bây giờ các cậu phán đoán tình hình mới sẽ như thế nào - T. hỏi.
- Chắc chắn là Phó ty Nghĩa của chúng ta sẽ làm quyền Trưởng ty rồi sau một năm thành chính thức. Nửa năm nữa thì đến lượt ông Trưởng phòng trồng trọt T. lên chức Phó ty. Lúc ấy đừng quên anh em nhé.
- Khao đi! Ông Phó ty tương lai - Mọi người giục.
- Tối nay đến nhà tao uống rượu - T. hẹn.
- Đến nhà mày chán bỏ cha, cô vợ mày lườm nguýt chúng tao nghẹn nuốt sao nổi.
- Nhưng mà chúng mày ạ. Ồng Nghĩa được chúng mình phò thì lão Kỉnh cũng được hàng chục đứa khác phò. Lão Kỉnh lại là Phó ty phụ trách khối kỹ thuật. Bản thân là kỹ sư... Ông Nghĩa nhà mình chỉ có hồng đếch có chuyên. Tao sợ cán cân không lệch về phía mình.
- Nhưng mà ông Nghĩa chúng mình phụ trách khối tài vụ, vật tư, kế hoạch, tổ chức... Mọi cơ sở vật chất nằm trong tay ông. Ông ấy lắc một cái thì dù có là công trình khoa học giời bể cũng xếp xó hết. Ân sủng lại như mưa rào khắp nơi, vì việc sắp xếp cất nhắc, cán bộ cũng đều do ông ấy cả.
- Lại có quan hệ ngoại giao tốt với các ngành các giới nữa chứ. Chơi xả láng. Bạn bè tùm lum. Lại phụ trách kế hoạch C của cơ quan. Mỗi tháng làm lãi cho cơ quan hàng chục ngàn. Anh nào được tiền kế hoạch C mà không thầm cám ơn.
- Nhưng tao vẫn cứ gờm ông Kỉnh lắm. Nhạy cảm. Trẻ. Có sức bật. Lại là kỹ sư giỏi. Vừa rồi ông ấy có một công trình lai tạo lúa nếp ngoi.
- Ôi dào... lai tạo thì ở Viện giống nó hắt hơi một cái là thành ối!
- Không! Mày không hiểu chuyên môn...
T. trầm ngâm đầy vẻ bí hiểm..
*
*    *
Anh đi dưới những nhành cam trĩu quả. Cam dậy mã như được bọc một lớp vàng quỳ rực rỡ. Tưởng như những trái cam kia phát sáng. Tiếng các cô gái hái cam đầu mùa cười khúc khích.    
- Có cho khách qua đồi một quả không đây - Anh mỉm cười, đúng cách một người quen biết.
- Ăn thì thả cửa nhưng không được đút vào cái túi du lịch to đùng kia - Các cô cũng chả vừa.
Anh lim dim mắt. Đồi cam chập chờn những quầng sáng. Cam như bóng đèn hằng hà sa số dưới rừng cây dạ hội. Múi cam đỏ mọng ngọt lịm trên môi. Anh vò mảnh vỏ nắng của cam thơm nức.
- Sao hạt bé thế các cô nhỉ?
- Rồi sẽ bé nữa và mất hẳn cơ.
- Cam chua giờ còn ở những khu đồi nào - Anh tỏ ra thông thạo.
- Đã bị tiêu diệt đến cây cuối cùng rồi! Đất này là đất của cam ngọt, đâu phải đất cam chua.
Đất này là đất cam ngọt... Anh đã nghe câu nói ấy cách đây hơn mười năm từ miệng một cô gái cũng trẻ đẹp hệt như các cô này... Ngày ấy tất nhiên là anh bẹo vào má cô và cười: “Em trẻ con biết gì”. Anh đang là kỹ sư trồng trọt, một nhà lai ghép, một Mít-xu-rin tương lai ở đây. Và cô đang là người yêu của anh. Cô hứ một tiếng rất “trẻ con” đúng như lời nhận xét của anh nhưng cũng đầy khí thế phản đối...
Nắng chiều tháng chạp ngày càng óng như màu giấy trang kim phủ lên đất trời trung du. Anh theo con đường nhỏ có những bông mẫu đơn dại đỏ ối. Anh đang đi tìm cô gái ngày xưa đây. Cuối đường này là nhà cô, anh thuộc lắm. Anh đã quen cái hình ảnh một bà mẹ tóc bạc suốt ngày trong vườn nhặt cỏ bắt sâu. Tháng ba hoa cam nở cánh rụng trắng mặt đất. Những con bướm trắng cũng dập dìu bay đầy vườn. Chúng chả sợ gì anh và cô. Bởi vì hai người chỉ giả vờ đuổi bướm để mà nồ nhau thôi. Cô trẻ con quá, thì đã đành. Nhưng mà anh lại còn trẻ con hơn...
Tiếng chim bông lau hót bên rặng rào làm anh thấy bồn chồn. Tiếng chim y như mười năm trước, không khác một tý gì. Bức rào vây quanh vẫn đầy những dây chìa vôi hoa tím. Cánh cổng ken bằng gai đóng kín. Ngôi nhà yên ả vắng lặng.
- Nghi ơi... - Anh cất tiếng gọi.
Giọng anh vang xa trên khoảng đồi mênh mông.
- Nghi ơi... - Anh gọi to hơn nữa.
Những con bông lau rạn người bay ríu rít sà xuống cổng. Chim trung du gan đến mức bay xoẹt qua đầu người ta trêu đùa.
Có tiếng bước chân rất êm trong vườn cam. Rồi giữa mảnh sân nắng lổ đổ lọt qua rặng bìm bìm, một người con gái mặc áo màu hoa lựu xuất hiện.
- Nghi... - Anh thảng thốt kêu lên.
Người con gái kinh ngạc nhận ra anh. Lúng túng một lúc mới chống được cánh cửa lên.
- Anh về thăm mẹ và em. Lâu lắm mới lại về Xứ Hạ - Anh cố làm vẻ tự nhiên.
Cô gái vẫn đứng trơ ra dưới giàn hoa nứa đan. Cô vẫn chưa phản ứng được trước việc xuất hiện của anh.
- Em vẫn là cán bộ kỹ thuật của Hợp tác xã cam
Xứ Hạ chứ?  
- Vâng.
- Em vẫn trẻ đẹp hệt như ngày xưa... không thay đổi tý gì!
Cô gái quay lại nhìn anh. Đôi mắt khác. Nhưng vẫn là đôi mắt của mười năm xưa. Vẫn gương mặt phúc hậu trăng rằm. Vẫn những nét cong bay bổng trẻ trung của cơ thể tinh khiết. Còn anh thì đã già. Tóc xù dài, những thớ thịt nhão và xệ ra, mi mắt mọng húp. Răng vàng khè và hơi thở hôi mùi thuốc lá. Anh không còn là chàng trai trẻ măng, mình lẳn cá trắm, cũng như không còn là người yêu của cô nữa.
- Anh có mấy cháu rồi - Cô hỏi.
- Một.
- Chị và cháu khỏe chứ?
- Ôi dào hỏi chuyện ấy làm gì!
- Chị ấy vẫn ở Đoàn Ca nhạc
- Thôi... bảo đừng nhắc đến nữa. Chúng mình cùng nhắm mắt, coi như không có mười năm qua. Và bây giờ anh lại là cậu kỹ sư lai ghép của đồi cam Xứ Hạ...
- Coi như thế nào được - Cô gái khẽ cười.
- Trời. Ước gì quay trở lại những ngày hồn nhiên trẻ trung đẹp đẽ xa xưa...
- Điều ước thật viển vông.
- Em không muốn thế sao?
- Không.
Anh bước tới đầu hè. Một cây cam mới bói đang treo quả tròn mọng. Anh hái một trái.
- Em như là cây cam mới bói này.
- Nhưng anh không được trầy quả mùa đầu như thế!
- Em vẫn giận anh lắm sao?
- Ôi, sức mấy! Giận thế thì sao sống được đến ngày nay.
- Sao em chưa lấy chồng?
- Điều ấy không liên quan gì tới anh.           
*
*    *
- Tôi nói cho cô biết, cô đừng có cậy sắc cậy tài. Tài gì cô? Hát như mèo hen kêu. Người ta buồn quá chả có gì tiêu khiển thấy một đứa con gái nhún nhẩy cười duyên gân cổ lên làm trò thì người ta cũng ngồi xem cho qua buổi.
- Này, khi đã cãi nhau thì đừng có đụng đến nghề nghiệp của nhau. Nhưng vì anh đã nói nên tôi phải trả đũa. Tôi dù sao cũng phải đổ mồ hôi khản giọng, còn hơn anh lúc nào cũng ngồi tán láo với nhau trên phòng làm việc. Kỹ sư như anh thì mới là thoát nạn mù chữ chứ làm được cái trò trống gì. Tôi đâu có lạ cái chương trình Đại học Nông nghiệp của anh. Môn nào cũng chuồn chuồn đạp nước một tý. Kỹ sư như anh chẳng qua có 13 cái bằng sơ cấp cộng lại. Tôi cũng nhầm nên mới vớ phải anh. Anh chính cống là thằng nhà quê đen như củ súng, suốt ngày chăn trâu, vày nước đầm, may mà học được 13 cái môn sơ cấp kia để lòe đời...
T. ném cái chén đến choang một cái xuống nền gạch.
- Của anh sắm bao giờ đấy mà anh đập - Hàn, vợ T. tru tréo - Cái ngữ anh mũi dòm mồm, vắt mũi thì đút xuống miệng, suốt đời mua sắm được cái gì!
- Cô bước ra khôi nhà tôi đi.
- Nhà anh bao giờ đấy! Dơ! Xấu! Cái mặt anh lại đòi có nhà cơ! Nhà này là Sở Nhà đất cho tôi. Anh chỉ là đồ ở ghé! Không có tài ngoại giao của gái này thì cái ngữ anh còn ở mái giấy dầu.
T. cảm thấy đuối lý. Con gái T. ngồi chứng kiến cuộc cãi cọ kịch liệt giữa bố và mẹ, nước mắt ròng ròng.
Giữa lúc đó đột ngột có tiếng gõ cửa.
- T. ơi, có nhà không?
Tiếng giày lộp cộp bước hấp tấp khác hẳn lúc bình thường.
- Kìa các cậu, có gì mà mặt tái xanh cả với nhau thế kia - T. chạy ra kêu lên.   
Ba người bạn, một người cao gầy ở phòng Lao động tiền lương, một người to béo ở phòng Tổ chức, một người ngăm đen ở phòng Kế hoạch, cùng gieo mình đánh phịch trên ghế.
- Chết cả nút các cậu ạ - Một người lên tiếng.
- Cái gì mới được chứ?
- Cậu cứ ru rú ở nhà cãi nhau với vợ không đến cơ quan không biết. Lão Kỉnh đã nhận được quyết định lên quyền Trưởng ty rồi.
- Trời.
*
*    *
Anh đến vườn cam Xứ Hạ ngày ấy cũng vào dịp tháng chạp. Cũng nắng màu hoa hòe như ngân lại không trôi đi được. Cũng tiếng tắc kè kêu, tiếng bánh xe trâu lọc cọc, tiếng cối kéo mật ken két, cũng mùi khói hun đất bảng lảng trong sương chiều.
Anh đeo một cái ba lô nặng sách vở và đi bộ tắt qua đồi đầy hoa mẫu đơn dại. Anh về đây để nghiên cứu cây cam truyền thống nổi tiếng. Chuyên đề xứng đáng lắm, bõ công lắm. Anh sẽ đóng góp công sức cho cây cam có năng suất cao hơn, quả to hơn, đẹp hơn...
Anh được người ta giao hẳn cho một vùng bãi rộng một hécta để làm trại thí nghiệm. Đội kỹ thuật gồm năm cô gái do Nghi, người có bằng trung cấp làm đội trưrởng.
Không biết là anh nảy ra ý định yêu Nghi trước hay là Nghi nảy ra ý định yêu anh trước. Nhưng anh nhớ là ngày ấy anh nhát lắm. Rất tự ty, cứ nghĩ là mình chả ra cái gì. Một người xinh đẹp như Nghi đâu có thèm yêu mình. Nghi phải yêu một người như thế nào kia chứ. Nhưng một hôm, hai người đi trẩy cam, anh đã giả vờ chạm vào tay Nghi. Nghi để yên không rụt lại. Anh thấy vững dạ. Hôm sau anh lại giả vờ bảo xem tướng tay cho Nghi, Nghi xòe bàn tay phải, ngón thanh tú nuột nà như búp ngọc lan. Mới đầu anh khẽ đỡ, rồi anh cầm hẳn lấy bàn tay và nói huyên thuyên. Nào đường tài hoa rất đậm, đường công danh thì rực rỡ, tuổi thọ đến 90. Lúc đó anh chưa biết nói đường của cải. Những năm ấy người ta chưa có tâm lý trọng vật chất như gần đây. Nịnh số giàu là không phải đường.
Hết cả những lời huyên thuyên rồi mà anh vẫn chưa buông tay cô... Cô rút nhè nhẹ, má đỏ ửng...
Anh chỉ sợ sẽ bị ăn tát. Anh đã rút kinh nghiệm hồi ở đại học. Một hôm anh đưa tay đỡ nhẹ eo lưng cô gái học dốt mà anh vẫn phụ đạo. Chỉ thế thôi mà cô ấy giang thẳng cánh tay tát làm mắt anh đổ hoa cà hoa cải. Từ ấy anh đâm ra hốt, cho nên phải cẩn thận chắc ăn.
Cầm được tay Nghi rồi anh yên tâm về nhà làm thơ tặng cô. Nhưng làm đâu có dễ... Mấy tập thơ tình mượn của thư viện thì toàn thứ tình cổ lỗ quá, không làm sao cóp được. Thơ tình trên báo chí toàn lồng nội dung sản xuất, chiến đấu, cũng khó hợp. Anh thật sự khổ tâm không có nổi một bài thơ tình để tặng Nghi. Nhưng rồi anh cũng yêu được Nghi mà chẳng cần phải thơ phú gì cả. Anh về ở trọ trong nhà Nghi. Mẹ Nghi chưa chi đã thương anh như con đẻ. Nhà chỉ có một mẹ một con. Vườn cam riêng của gia đình rộng mênh mông, cảnh nhà đầm ấm.        
Công việc của anh vẫn tiến triển nhưng chậm quá. Những cây cam trong trại thí nghiệm chả khác ngoài được tẹo nào. Anh sốt ruột. Mọi sự vồ vập ban đầu, sự hy vọng vào kỹ thuật mới đã giảm bớt. Anh phải làm một cái gì nổi trò trống chứ. Anh phải là một nhà gì chứ chả lẽ là đồ vô tích sự à.
Điều anh muốn quả nhiên thành sự thật. Ở Xứ Hạ đến năm thứ năm thì trại thí nghiệm mọc lên một thứ cam mới. Những quả cam to gấp bội, vỏ mỏng,
đẹp mã và sai như trấu trát. Chỉ có điều ăn nó không ngọt. Quả nào tốt lắm cũng chỉ có vị dôn dốt... Còn nói chung thì chua loét. Anh đã lai cam Xứ Hạ truyền thống với cam chua. Giống cam chua thật khoẻ, thật hung bạo kia lớn nhanh như thổi, quả bằng cái bát, sai níu gãy cành. Nguyên giống của nó thì chua gẫy răng. Được lai với cam ngọt sắc của Xứ Hạ nó đã bớt cái vị hoang dại trở thành dễ chịu hơn.
Thế là anh thành công. Anh công bố công trình của mình và đề nghị trồng đại trà tác phẩm mới này.
Anh nói với ban lãnh đạo vùng chuyên canh:
- Cam truyền thống ngọt thì ngọt thật, nhưng năng suất thấp quá, khả năng chịu bệnh kém, tỷ lệ quả kẹ nhiều, tuổi thọ của cây hạn chế. Cam truyền thống khó tính như con cầu. Giống lai này có ưu thế hơn hẳn. Năng suất gấp đôi, tội gì ta không thay giống.    
- Nhưng nó không ngon bằng - Nghi cãi.
- Thế nào là ngon. Ngon hay không chẳng qua là tại cái lưỡi mình có quen ăn hay không? Người Việt Nam thiếu chất đường hễ cứ thấy ngọt là thích. Quốc tế họ lại thích chua. Họ đâu có thiếu chất đường. Khó gì cái chất đường. Cho vài cùi dìa vào là cốc cam chua thành cam ngọt ngay. Phân tích thành phần hóa học: chất bổ trong cam chua chẳng kém gì cam truyền thống!
Vấn đề bây giờ là phải làm cho cam nhiều như sỏi đá. Hoàn cảnh ta bây giờ cứ nhiều là tốt rồi. Giải quyết số lượng cái đã. Phải có con mắt kinh tế. Cam chua là con đường kinh tế nhất!
Lý lẽ của anh thật hay, thật hùng hồn. Mùa xuân năm ấy cam chua bắt đầu được trồng hàng loạt. Cam chua mang sức sống hoang dại, chỉ vài ba năm đã kết quả trông thấy. Ngoại thương khi lựa cam để mua chỉ căn cứ vào kích thước to, đẹp mã, quả đều. Cam chua được giá. Chẳng bao lâu diện tích cam ngọt bị thu hẹp dần.
Thế là cuộc “cách mạng xanh” của anh đã thành công. Anh bỗng trở thành “to phe”. Tên tuổi nổi như cồn. Những cụ già khi nuốt miếng cam chua không khỏi nhắm mắt buông một tiếng chửi anh. Nhưng chửi thì chửi, mặc kệ, anh vẫn là người làm nên một chuyện động trời ở đây. Bây giờ anh chả còn là người thường. Anh được ví như Mít-xu-rin. Tên tuổi anh khá quen thuộc. Chả khó khăn gì, chỉ cần ngỏ ý một câu là anh về thẳng Ty Nông nghiệp ngồi ghế trưởng phòng kỹ thuật
trồng trọt.
Anh rời bỏ vùng cam Xứ Hạ. Và sang đến quý ba của năm đó thì anh cũng cắt đứt với Nghi. Đúng là ngày xưa anh ngây thơ quá. Tỏ tình với Nghi mà anh đã sợ run lên, trống ngực thình thịch. Té ra anh chưa hiều hết giá trị của mình, chưa khám phá hết chính mình.
Nghi không hỏi vì sao anh đá cô. Hỏi làm gì. Không yêu là không yêu! Thế thôi! Không thích nữa thì không yêu. Chả phải vì Nghi luôn phản đối anh chuyện lai cam chua. Chả phải vì Nghi không xinh đẹp... Chỉ biết là anh không yêu Nghi nữa. Thế thôi! Và bây giờ thì anh yêu Hàn. Nghi như bông huệ trắng. Hàn như bông hồng nhung. Hồng nhung rực rỡ chói chang lắm. Anh chết mệt mỗi khi thấy Hàn lộng lẫy trên sân khấu. Hàn hát những bài nội dung về thâm canh lúa, về nuôi lợn, về đào đất, nhưng điệu bộ lại uốn éo dậm dật như trong một ban nhạc Ja nào. Anh khôn chán. Anh sợ Hàn sẽ đá anh như anh đã đá Nghi. Nên yêu rồi thì cưới liền tay. Thế là Hàn chả bỏ được anh nữa. Nhưng Hàn cũng chả bỏ được cái tính đanh đá, thói lười biếng sau khi thành vợ anh. Cũng chả bỏ được cái tật ăn quà như mỏ khoét, chả bỏ đuợc tính đành hanh kênh kiệu, khinh người...
*
*    *
Hai người lại đi giữa vườn cam.
- Như đi trong giấc mơ em nhỉ - Anh thốt lên.
- Có gì mà mơ.
- Em có bao giờ thấy một cảnh thần tiên. Những cây treo quả vàng, quả bạc óng ánh ảo huyền. Còn anh thì chuếnh choáng hư hư thực thực, đi bên em.
- Đi bên em thì xơ múi gì?
- Chúng mình đi bên nhau như mười năm xưa...
Phải, mười năm xưa, anh đã đi bên cô, nhưng rồi anh cuốn xéo hẳn. Đi không ngoái cổ lại. Ngày ấy Nghi bàng hoàng nhìn ra đất trời chỉ thấy toàn những trái cam chua mà anh để lại. Những quả cam chua sao không cuốn xéo theo kẻ ấy. Nghi đau khổ mất nửa năm. Và cô trở thành một người chợt nhớ chợt quên. Cái lược cài ở liếp mà thỉnh thoảng tìm mãi không ra... Cô nhìn trong gương. Con bé trong ấy không phải là cô nữa. Đôi mắt nó lặng như đáy hồ thu. Mắt cô vui kia mà. Gò má
màu hoa hồng bạch hình như đã phai sương. Phảng phất mùi thuốc lá ô trọc của hắn còn đâu đây trên mái tóc. Cô bật khóc. Nhưng khóc rồi thì cũng phải nín. Cô lặng lẽ như một cái bóng. Cô giặt kỹ và phơi nhiều nắng tấm khăn choàng mà hắn đã nhiều lần ấp môi vào đó.
Mình là một đứa dớ dẩn! Nửa năm sau cô nghĩ như thế. Và cô bật cười khanh khách. Má cô vẫn còn nguyên màu hoa hồng bạch tinh sương. Chẳng có mùi thuốc lá thuốc liếc vớ vẩn nào còn lẩn quất ở đây cả. Cô nhảy tung tăng giữa vườn cam đang mùa hoa trắng muốt. Hoa cam trinh bạch đến lạ lùng. Con chim bách thanh quen thuộc của đồi cam bay đến hót ríu rít sau lưng cô. Nó chả sợ gì cô cả. Càng ngày nó càng sà đến gần. Cô định bắt chước tiếng nó hót nhưng không đuợc. Buồn cười quá. Cô cười rũ ra. Mẹ cô chạy lại hỏi :
- Mày cười với ai thế?
- Với con chim bách thanh.
-  Còn bé lắm đấy! Lấy chồng được rồi mà như trẻ con.
- Mẹ ơi mẹ có ghét cái giống cam chua này không - cô đột ngột hỏi.
- Cái thằng ôn vật nó đem cái giống chết tử chết tiệt này về làm hại cả làng người ta rồi tếch đi mất.
- Con sẽ đền mẹ, mẹ ạ!
- Đền cái tông giống nhà chị.
- Cơn dịch nào rồi cũng đi qua chứ mẹ.
Mẹ chẳng hơi đâu mà cãi nhau với cô nữa. Nhưng bà yên tâm vì lại thấy con mình trở lại y hệt ngày xưa. Ngày nó dậy thì, mới lớn. Ngày nó chưa biết cái thằng ôn vật ấy...
- Làm sao thay giống được cả một vùng cam chua sang ngọt thế này - Anh thật sự ngạc nhiên hỏi.
- Làm sao mà anh thay giống được cả một vùng cam ngọt sang chua.
Anh bẽn lẽn:
- Em phải mất mấy năm?
- Ngắn hơn thời gian của anh.
- Cam chua không phải là không có ích -  Anh cố cãi -  Năng suất của nó cao.
- Nhưng giống cam truyền thống ngọt sắc của em bây giờ được trồng theo kỹ thuật mới cũng cho năng suất gấp bội, thì lại càng có ích hơn.
- Tất nhiên!
- Nhưng tại sao anh không làm theo cái sự tất nhiên ấy.
-  Trình độ kỹ thuật của thời điểm lúc bấy giờ chưa cho phép.
- Không đúng - Cô bác thẳng cánh.
Anh ầm ừ trong cổ họng.        
Nắng hanh như run rẩy phập phồng quanh những lùm cam trĩu nặng.
- Em như trái cam đang bắt đầu dậng mã dậy thì này.
Cô cười nhạt:
- Thời ấy của em qua rồi.
- Chưa qua - Anh khăng khăng cãi.
- Chị và cháu trên tỉnh khoẻ chứ - Cô độp một câu chen ngang chấm dứt.
- Anh bây giờ chỉ có một mình.
- Sao lại rũ tuột vợ con đi thế - Cô phá lên cười.
- Anh đã nhầm. Anh là thằng con giai xuẩn ngốc. Anh là thằng mù. Là đứa dở người, ngu độn.
- Ấy chết, sao lại rủa xả độc miệng thế. Mà toàn rủa oan cả.
- Anh đã cầm ngọc trong tay, lại để lăn đi mất.
- Vợ đẹp con khôn còn thắc mắc nỗi gì.
- Vợ anh là con quạ mổ, con thần nanh đỏ mỏ.
-  Đừng đồ oan cho chị ấy.
- Anh sẽ tìm cách giải thoát đời anh... Anh bây giờ như con thuyền bơ vơ không bến.
Cô bĩu môi. Anh mặc kệ. Anh biết con nghé bao giờ đầu tiên nó cũng rất bướng bỉnh, nhưng khi đã xỏ được mũi rồi thì tha hồ dắt đi. 
- Em có nhớ cũng đồi này năm xưa...
- Không, quên hết rồi...
Anh lại vít nhành cam bẻ một trái ôm vào ngực:
- Tim em cũng tươi thắm như thế này.
- Tim người ta mà dứt đứt ra thế kia thì chết cha người ta còn gì nữa.
- Đây là trái tim của tình yêu.
- Những câu văn hoa hả hơi quá rồi anh.
Anh đứng sững. Có lẽ nào con nghé tơ không để cho anh xỏ mũi nữa. Nó đã thành con trâu lớn có sừng rồi!
- Em tha thứ cho anh đi! Anh sẽ về thị xã bỏ vợ ngay tức khắc. Vợ anh nó cũng sẵn sàng ly dị. Em gật đầu cho anh một cái đi - Anh mặc cả xít xao nước rút - Ông Kỉnh đã lên chức trưởng ty rồi, anh đã bị “thua trận” ở cơ quan. Anh lại muốn về vùng cam, về ở hẳn đến già! Anh sẽ lại nghiên cứu lai ghép cho cây cam ngày một năng suất cao. Anh lại y như ngày xưa, ở trong ngôi nhà yên ấm với Mẹ và Em. Chúng ta hãy cùng quên hết quá khứ... Chỉ còn tình yêu trong trắng thơ mộng. Ngày ngày chúng ta dắt nhau đi dưới vườn cam nghe chim hót.  Anh chán sự bon chen lắm rồi. Bây giờ chỉ có em là tất cả... Em hãy gật đầu cho anh một cái đi, gật đi - Anh năn nỉ.
- Này anh! Hãy mở to mắt nhìn nhé.
Cô nghiêm trang lắc những cái thật mạnh.
- Trời! Một rừng cam ngọt thế này mà sao em lại ban cho anh một trái chua trái chát đến như vậy.
- Vì đó là trái của anh tạo nên.
Cô trả lời quả quyết!
Hà Nội, 10-82




Trệch toạ độ([1])
Truyện vui

C
on người ta sống trong mối quan hệ xã hội ở nhiều “toạ độ” khác nhau. Toạ độ cha mẹ và con cái, toạ độ vợ chồng, toạ độ bạn bè, toạ độ đồng nghiệp v.v...
Nhân viên và sếp, một toạ độ. Bồ bịch, một toạ độ khác... Biết bao nhiêu toạ độ là toạ độ. Ông Trếch một người đàn ông bình thường. Như một chiếc kim đồng hồ, ông quay đều đặn quanh những “con số - toạ độ” của mình. Nhưng không hiểu sao một ngày kia, cái kim đồng hồ bỗng chạy sai đi một nấc. Đáng lẽ chỉ 1 giờ nó lại chỉ 2. Đáng lẽ mới 2 thì nó lại sang 3. Đáng lẽ 3 thì nó 4. Cứ thế cái kim đồng hồ quay lẫn lộn lung tung hết cả.
Là nhân viên cao cấp của Văn phòng bộ Du lịch do một bà giáo sư tiến sĩ làm tổng trưởng, hàng ngày ông Trếch đến Sở đều đặn.
Buổi sáng hôm ấy, trước khi đi làm, đáng lẽ tạm biệt
vợ bằng một cái hôn theo thói quen viên chức như thường lệ, thì ông lại đến trước bà cung kính nhấc mũ rất kiểu cách và khúm núm.
- Xin chào Bà tổng trưởng ạ.
- Không dám chào quý ông - Bà vợ tưởng chồng đùa, cũng đáp lại. Ông ấy dạo này dí dỏm gớm.
- Thưa Bà... Cho phép tôi được tường trình với bà về công việc...
- Tôi cho phép, ông nói đi.
- Thưa Bà... Bộ ta phải chuyển cho Ban of France ngân phiếu 12 triệu đồng về khoản... Đề nghị Bà kí vào Ngân phiếu cho ạ...
Ông Trếch chìa tập séc. Bà vợ thò cây viết Bíc ký toẹt một chữ như giun bò, rồi toét miệng cười. Ông ấy muốn diễn một tấn hài kịch nhỏ, tôn mình làm “tổng trưởng”, để mua vui cho vợ. Thật là một người chồng tế nhị.
- Ông Trếch - Bà vợ tiếp tục nhập vai vở kịch - Ông là một nhân viên mẫn cán của Bộ ta. Ông phục vụ tôi - tức là bà tổng trưởng - thật tận tâm. Để thưởng công lao ấy, kể từ ngày hôm nay tôi thưởng cho ông một
trật lương...
- Đa tạ bà.
- Thế nào? Cuộc Sống riêng của ông vẫn ổn chứ. “Nền tài chính” gia đình ra sao?
- Dạ thưa bà cũng tàm tạm.
- “Bà nhà” là người thế nào?
- Dạ nhà tôi là một người đàn bà Việt Nam “cổ điển”,
rất mẫu mực ạ.
- Ông hài lòng về bà ta chứ?
- Hài lòng ạ.
- Ông có vụng trộm cặp bồ với các đào khác không?
Bà Trếch mắt đen lúng liếng vẫn tiếp tục đùa cợt chồng.
- Dạ tôi cũng là một người đàn ông “cổ điển” ạ, chỉ biết chăm lo làm ăn, không nghĩ đến chuyện chơi bời.
Màn kịch - theo bà vợ tưởng - cứ thế tiếp tục kéo dài. Đời người sống được bao nhiêu. Mỗi một tiếng cười làm cho người ta kéo dài thêm tuổi thọ 5 giây. Vậy thì tội gì không cười. Cuộc sống hàng ngày lo ăn lo mặc, lo công việc. Lo lo, lo, lúc nào cũng lút đầu. Thời gian của người 8/10 là đăm chiêu tính toán. Tạm chia một đời người ra thế này: tuổi con nít là vui nhất. Con nít lấy chơi đùa làm vui. Hoa niên lấy yêu đương làm vui. Khi thành gia thất lấy sự hăm hở thực hiện chương trình cuộc đời làm vui. Sang tuổi xế bóng thì chỉ có lo lắng đăm chiêu. Mọi trò xưa đều trở thành vô nghĩa không làm người ta vui được. Cho nên hôm nay ông phải bày trò lạ làm vui...
- Thưa bà tổng trưởng - Ông Trếch vẫn tiếp tục cung kính... - Thi hành công điện số 15 PTT của Phủ Tổng thống về việc giao cho Bộ ta chủ quản tổ chức mùa thi Hoa hậu năm nay...
- A... mùa thi hoa hậu... Tuyệt lắm - Bà Trếch reo lên - Năm nay với tư cách tổng trưởng Bộ Du lịch do ông làm... nhân viên văn phòng... Tôi sẽ chính thức làm Chánh chủ khảo. Chỉ tôi mới có con mắt sành điệu
phát hiện ra thế nào là một người con gái đẹp... Đại để giống như... tôi hồi 20 năm về trước: 80-42-82. Đó phải như thế... 80-42-82, ông nhớ kỹ cho cái “hằng đẳng thức” ấy. Hí hí... Ông Trếch, sao mặt ông đực ra thế kia... không hiểu gì phải
không.... 80 là vòng ngực... 42 là vòng eo... 82 là vòng mông... Ôi dào, đàn ông các anh có mắt cũng như mù, cứ thấy đứa nào “mỡ màng” một tí, vội cho là mỹ nữ, thế là mắt la mày lém. Nhất là ông ấy, chính ông “Trếch nhân viên” của tôi ấy, thì lại càng chẳng biết cóc thế nào là đàn bà đẹp. Vì thế mùa thi hoa hậu năm nay tôi không cho ông tham gia Ban giám khảo nữa.
Nghe chưa!.. Đây là quyết định chính thức của tôi - bà tổng trưởng.
Ông Trếch mặt đực ra, tần ngần, tiếc rẻ, nhưng cam chịu sự phán quyết ấy theo đúng truyền thống những nhân viên được đào tạo từ thời Tây thuộc địa.
Trời ơi, ông ấy đóng kịch mới khéo làm sao. Thế này mà ông ấy không thành diễn viên điện ảnh kể cũng lạ. Lẽ ra ông phải là tài tử màn bạc nổi tiếng mới đúng chứ...
- Thưa bà tổng trưởng... Tôi rất lấy làm sung sướng vì đã được phục vụ ở Bộ ta 15 năm có lẻ. Tôi đã trải qua bốn đời tổng trưởng, nhưng tôi thành thật bộc lộ với Bà rằng chưa bao giờ tôi thấy vinh hạnh như những năm tháng này. Bà là một giáo sư tiến sĩ tên tuổi, tầm cỡ quốc tế, một nhà văn hoá lớn, nhà nhân văn chủ nghĩa, đáng đưa vào từ điển Larút... Bà đã điều hành guồng máy Du lịch này một cách tuyệt hảo...
- Cám ơn ông Trếch quá khen tôi! Nhưng hình như trong khi đang nói về những vấn đề lớn lao ấy thì mắt ông
cứ hau háu nhìn tôi... Khổ thân “ông nhân viên” của em quá. Thương “nắm”, thương “nắm”... Nào lại đây...
- Dạ... Đa tạ bà... Dạ tôi không dám ạ. - Ông Trếch đi xe lui, lưng khom, mắt cúi xuống như kẻ thường dân không dám nhìn long nhan.
Khi ông đi khỏi, bà Trếch cười ré lên, cười sặc sụa, vùng vẫy trên giường mà cười. Tràng cười vui, giòn tan, sảng khoái.
Nếu tổng cộng những tiếng cười này có thể thọ thêm đến 15 phút.
*
*    *
Ở Sở về, ông Trếch ghé quán “Nai đồng quê”
ven đường.
- A... chào bạn... Vào đây vào đây...
Một người đàn ông da bóng nhẫy như bôi mỡ, ria con kiến, vui vẻ vẫy tay. Đó chính là chủ quán Nai đồng quê. 1/3 lương tháng của ông Trếch “gửi” vào quán này. Nhưng chủ “Nai đồng quê” là một người tốt, biết điều, bao giờ cũng bán rẻ cho ông, hơn thế nữa luôn là bạn nhậu của ông. Cả hai cùng “ghiền” thứ “đặc chủng” này.
Thịt chó, thịt cầy, cả hai từ nghe đều dung tục. Mà tính bà chủ quán lại rất thích những cái gì mơ mộng trữ tình, mặc dù bà ghiền thứ thịt đặc chủng này bằng cả hai ông kia cộng lại. Chịu ảnh hưởng của văn hoá Châu Âu, bà ghê tởm khi phải nghe những âm từ “ăn... thịt... chó”. Vì thế bà nghĩ ra từ “Nai đồng quê” thay thế.
Trên đời này, không biết thế nào thật! Cái thứ thịt ngon nhất thế giới - thịt cầy - thì một nửa thế giới (tức là Âu - Mỹ) giầu có nhất, sành ăn nhất lại lắc đầu. Vậy là họ dại mồm hơn ta nhiều ông Trếch ạ - Ông chủ Nai đồng quê đưa ra “luận thuyết”. - Họ chê thì ta càng được chén nhiều - Ông Trếch khoái trí.
Câu chuyện mặn mà trong các bữa nhậu của đôi bạn ghiền Nai đồng quê từ trước đến nay thường là như sau:
- Ngon tuyệt... Béo ngậy... Riềng mẻ mắm tôm bao giờ cũng nên bóp kĩ cho ngấm trước một tiếng đồng hồ...
- Một miếng nầm chó đánh ngã cả đĩa thịt mông.
- Pín khẩu óc áp huyết là món “biểu tượng” của quán chúng tôi. Giá bán một đĩa bằng cả con cầy cộng lại.
- Pín khẩu tiếng Tầu, xin lỗi bác, có nghĩa là, vâng bác bỏ quá cho, là... là... cái cu con cầy... Làm cầu kỳ lắm, với hàng chục gia vị, và để nguyên dạng trên đĩa sứ
đời Thanh!
- Dồi chó cũng là một món “bí truyền”. Nó phải có lá cúc tần - cái hương vị truyền thống của ông bà mình.
- Chả gan chó thì phải kẹp lá na non lẫn mỡ chài rồi nướng trên than hoa.
- Khi thui chó phải thui bằng rơm, không được thui bằng than hay điện. Mà phải rơm nếp. Hơi rơm, hơi khói, hơi tro... tất cả những cái đó ngấm vào làn da vàng ươm của con chó, tạo nên một hương vị đặc biệt mang tính chất “truyền thống”, “dân gian”, thiếu cái hương vị đó, miếng thịt chó vứt đi...
... Hôm nay ông Trếch lại có dịp ngồi với ông chủ quán “Nai đồng quê”. Trước mặt họ đủ món nhắm: luộc, nướng, chả lá na, dồi, rựa mận.
Ông chủ bắt đầu rót rượu, và lại tiếp tục câu chuyện muôn thuở.
- Ngon tuyệt... béo ngậy... Riềng mẻ mắm tôm bao giờ cũng nên bóp kỹ...
Nhưng hôm nay ông Trếch trệch toạ độ.
- Vừa rồi tôi có đọc cuốn Lịch sử triết học - Ông Trếch bắt đầu như mọi lần vẫn cao đàm khoát luận với một anh bạn đỗ thạc sĩ triết học ở Pari từ hồi trước Đại chiến thế giới thứ II - Tôi giật mình thấy rằng nền triết học phương Đông phát triển thật sớm. Các đại biểu lỗi lạc nhất của tư tưởng triết học phương Đông cách đây hàng mấy ngàn năm đã chỉ ra rằng...
- Ngon tuyệt... Béo ngậy... Riềng mẻ mắm tôm bao giờ cũng nên bóp kỹ.
- Còn bên phương Tây thì từ Aríttốt đã chỉ ra rằng...
- Một miếng nầm chó đánh ngã cả đĩa thịt mông.
- Triết học là khoa học của mọi khoa học. Triết học thực sự soi rọi cuộc sống, phát hiện ra mọi quy luật cuộc sống.
- Pín khẩu óc áp huyết là món...
- Triết học là một tư duy trừu tượng. Để con người nhận biết nó ngày một dễ dàng hơn, ngày nay một số nhà triết học có khuynh hướng tìm cách diễn đạt bằng văn học.
- Pín khẩu tiếng Tầu, xin lỗi bác, có nghĩa là...
- Trong những năm gần đây, triết học hiện sinh ở phương Tây đã trở thành “thời trang”...
- Nhưng dù sao dồi chó cũng là một món ngon tuyệt chứ.
- Bùng nổ trong thanh niên phương Tây một lối sống hiện sinh.
- Khi thui chó phải thui bằng rơm nếp...
Câu chuyện giữa đôi bạn nhậu diễn ra mặn mà, đầm ấm, ăn ý, gắn bó suốt cả buổi.
*
*     *
Từ trong quầng sáng đục của hành lang ốp đá hoa cương, một người đàn bà trông hệt một “hoàng thái hậu”, bước ra vùng ánh điện trắng. Người hầu gái vừa báo cho bà biết có ông Trếch ở bộ Du lịch, vốn là bạn văn chương của bà, tới thăm.
Bà “hoàng thái hậu” bước từng bước nhẹ trên đôi hài gấm với dáng đi của bậc một thời “quốc sắc thiên hương” và với điệu bộ của bậc “mẫu nghi thiên hạ”. Bà già vốn là một nữ sĩ văn tài có thể sánh ngang với Bà Huyện Thanh Quan thời xưa, và quyết một lòng tiếp nối dòng thơ Bà Huyện Thanh Quan. Mặc cho các trào lưu thơ mới, thơ hiện đại, thơ môđéc trúc trắc không vần ào ạt như sóng biển dội trên văn đàn, bà vẫn đóng chặt ngôi biệt thự mái cong, cửa chạm rồng phượng, đốt lò hương, thắp nến bạch lạp, trải giấy hoa tiên viết những dòng thơ Đường luật thanh tao như tuyết như sương chắt chiu
từ trái tim hoài cổ. Đêm đêm mái tóc pha sương của người nữ sĩ gối lên những tập Tống thi, Đường thi in Thạch bản từ thế kỷ trước. Bà quý ông Trếch ở chỗ ông là người biết cùng bà nâng chén trà hái từ đỉnh núi
Vũ Di tuyết phủ mà ngẩn ngơ tiếc cánh hạc vàng đã bay đi, để lại ngôi lầu Hoàng Hạc cô đơn giữa sông tạnh cây bày Hán Dương và bãi xa cỏ non Anh Vũ...
Bà nữ sĩ cung kính cúi chào ông Trếch, mời ông ngồi bên hòn non bộ dưới mái “Nghênh phong các” uống trà thưởng nguyệt đêm nay. Theo thói quen như mọi khi, bà ngâm nga “Nhành Chương đài liễu ngày xưa. Biếc xanh tha thướt bây giờ còn chăng. Ví dầu còn có biếc xanh...”
- Dồi chó, chả chó kẹp lá na riềng mẻ mắm tôm bóp kỹ thịt nầm, - Ông Trếch bắt đầu câu chuyện.
Bà nữ sĩ vẫn lim dim nhìn “cành liễu Chương đài” với tấm lòng khắc khoải “Thì tay ai đã vin cành bẻ tơ” không để ý lời ông Trếch... Rồi mái tóc bạc run nhè nhẹ, bà ngâm nga tiếp:
- Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
- Dồi chó nhất thiết phải có nhiều mỡ chài mới béo. Ngoài ra chỗ khấu đuôi nấu rựa mận là tuyệt nhất...
Bà nữ sĩ trố mắt kinh hoàng nhìn ông Trếch, mái tóc Hoàng thái hậu pha sương rung từng sợi. Bà vịn tay vào nhành liễu, lê từng bước trên đôi hài gấm về phía sảnh đường, suýt khuỵu ngã mấy lần...
Ông Trếch vung tay, vẻ kết thúc buổi tranh luận:
- Dồi chó vàng nướng chả là ngon nhất.
*
*    *
Bà Trếch ngồi một mình buồn tênh trong phòng khách. Gió đông hây hẩy. Gió đông làm cho đôi má bà cứ đỏ rạo đỏ rực lên.
Cửa phòng xịch mở. Ông Trếch tiến vào, bỏ mũ úp ngực cung kính:
- Xin chào bà tổng trưởng ạ.
Bà Trếch lại mỉm cười:
- Chào ông nhân viên già mẫn cán.
Rồi bà đi ưỡn ẹo, ưỡn ẹo quanh ông. Ông Trếch vẫn đứng khép nép như đứa học trò trước mắt cô giáo.
Bà Trếch uốn cong ngón tay trỏ dí vào trán ông, cười tủm, rồi lại đi ưỡn ẹo như “Thị Mầu lên chùa”. Ông thủ vai kịch nói giỏi, thì gái này thủ vai chèo cũng có kém ai - Bà nghĩ.
Ông Trếch vẫn cứ đứng đực trước mặt bà “tổng trưởng”, lúng búng như định nói cái gì mà không dám. Chuông đồng hồ điểm 7 tiếng, bà “tổng trưởng” hạ lệnh nghiêm khắc:
- Ông về văn phòng chuẩn bị cho tôi một số tài liệu cần thiết để tôi sắp sửa đi thanh tra các sở trong toàn quốc nghe chưa...
- Dạ... Xin sẵn sàng ạ...
Ông Trếch xuống gara lấy chiếc HonĐa 67 phóng vèo đến Sở. Với dáng điệu một nhân vật quan trọng, bận rộn, ông hấp tấp đẩy cửa sảnh đường lớn của trụ sở Bộ, nhẩy hai bậc lên thang gác...
Cắm cúi “cạo giấy” một mạch hết đúng một tiếng, ông mới ngáp vươn vai nghỉ xả hơi. Gió đông lùa qua cửa vào hây hẩy. Cái gió đông hay quá, cứ làm người ta rấm rứt cả người.
Mắt nhắm lơ mơ, ông Trếch ngả đầu lên thành ghế. Vừa lúc ấy một người đàn bà cao lớn, vận áo dài nhung, mặt hoa da phấn, kính trắng lấp lánh, khoan thai bước vào. Đằng sau là cô thư ký người Nhật vận kimônô rực rỡ.
Cô thư ký này vốn là học trò của bà hồi bà là giáo sư tiến sĩ bên Nhật; khi được mời về nước giữ chức tổng trưởng bộ Du lịch, bà đem theo cô về.
Bà tổng trưởng ra hiệu cho cô thư ký dừng lại ngoài hành lang để một mình vào phòng làm việc với ông nhân viên cao cấp Văn phòng Bộ.
- Chào ông Trếch, thi hành hiệp định đã ký giữa Bộ ta và Bộ Du lịch Nhật Bản, sắp tới sẽ có một đoàn gồm nhiều quan chức cao cấp của phía Nhật sang thăm ta. Tôi quyết định cử ông làm trưởng ban lễ tân...
- Em muối cà pháo mặn bỏ xừ ra ấy...
Bà tổng trưởng vẫn không để ý:
- Ông phải vạch chương trình chuẩn bị chu đáo. Sau cuộc hội đàm giữa hai bộ lần này, sẽ có một khoản viện trợ bổ sung từ phía Nhật cho Bộ ta...
- Chiều mai, em mua lấy mấy cân mắm tôm về trưng mỡ ăn dần...
- Cái gì... Ông nói cái gì thế - Bà tổng trưởng đưa tay đón đôi kính trắng suýt rơi.
- Em thì chỉ giỏi giả vờ. Bốn “cái tàu há mồm” nhà mình thì đến mắm ngoé nó cũng ăn, chứ đừng nói mắm tôm.
- Ôi... ôi... Bà tổng trưởng run bần bật, không biết mình mê hay tỉnh.
Ông Trếch đứng dậy, ngáp một cái, oằn oài, rồi thản nhiên vươn tay sờ vào khuy áo bà tổng trưởng, lặng lẽ cởi từng chiếc. Bà tổng trưởng đứng như trời trồng. Đã có những vụ ám sát chính trị lớn diễn ra giống như thế này. Khuynh hướng chính trị của bà ngả về phái Hữu đang cầm quyền trong nội các. Tên gián điệp đội lốt nhân viên văn phòng Bộ này là người của phe nào? Hữu, tả, cực đoan, ôn hoà, bảo thủ? Hay hắn làm việc cho cơ quan tình báo của Anh? Mỹ? Pháp?
Ông Trếch thản nhiên xục tay mân mê vú bà tổng trưởng...
1986

Hoa sen trắng
K
ý túc xá sinh viên chúng tôi ở trong một khu phố ngột ngạt không cây cối, tường xi măng lở loét. Chiều hè oi bức, người như cá nằm trên cạn. Thật sợ mất vía ngôi nhà ký túc giường tầng nhung nhúc người cởi trần. Có một buổi chiều như thế, tôi nghe tiếng rao: “Ai mua hoa sen trắng”. Tiếng rao trong trẻo như gợn gió nhẹ len vào gian phòng nực nội. Ngó ra thấy một cô gái xinh xắn, thanh mảnh, đòn gánh vút cong một gánh hoa sen. Tôi quyết định nhịn phần xôi sáng lấy tiền mua một bông. Sen chớm nở, cánh trắng muốt, nhị vàng lấp ló thơm ngát.
Về phòng, tìm chiếc lọ gốm cắm hoa, tôi cứ liên tưởng vẩn vơ. Hình bóng cô gái vấn vương gợi nhớ những bông sen trắng, hay là ngược lại, bông sen trắng gợi bóng hình cô.
Bông hoa đem một chút hương đồng quê về với căn phòng bộn bề quần áo sách vở. Những chàng trai sinh viên mơ mộng chợt hiểu ra điều đó.
Hai hôm sau, cô gái lại đến. Lần này phòng “phân công” người khác mua.
- Mỗi chiều cô đến đây một lần nhé. - Tôi bảo.
Cô mỉm cười:
- Thường thì người ta mua cả bó 10 bông. Lặn lội đến tận phố hẻm này, chỉ bán được một bông, chả bõ.
Tôi thật sự thất vọng, khi mấy chiều liền không thấy tiếng rao: “Ai mua hoa sen trắng” nữa! Nắng hè như càng oi bức ngột ngạt hơn. Tôi cầm sách xuống phố, tìm một góc vắng, cố nhét chữ nghĩa vào đầu. Nhưng chữ nghĩa cũng ngột ngạt, lộn xộn, không chịu vào cho. Tôi và nó đánh vật cùng nhau mệt phờ. Bỗng tiếng rao: “Ai mua hoa sen trắng” trong vắt như giót từ trên cao xuống. Giật mình cảm nhận mùi sen thơm ngát đâu đây.
Tôi móc đồng bạc cuối cùng trong túi ra mua. Nhưng không dám hẹn cô ngày mai trở lại. Làm gì còn tiền. Đúng lúc tôi biết thân biết phận, chẳng mong đợi nữa thì cô lại đến đều đặn. Có hôm, từ sáng sớm, những bông hoa sen vừa hái dưới đầm lên còn đọng sương. Sao cô bảo: lặn lội đến phố hẻm này chả bõ... Tôi nhìn ánh mắt cô đọc được cái gì đó trong trẻo, hồn nhiên vui thích mỗi khi đưa hoa cho chúng tôi.
*
*    *
Mùa hạ có bao nhiêu ngày nhỉ. Và mùa sen đến bao giờ thì tàn. Bẵng đi mấy tuần, không thấy tiếng rao: “Ai mua hoa sen trắng”, giật mình nhìn lên, thấy trời đã
sang thu tự lúc nào. Nắng vàng óng, mây xanh ngắt. Sang thu thì làm gì còn hoa sen. Thảo nào không thấy bóng cô gái. Tôi buồn buồn cái gì không rõ rệt. Sương thu làm cho tôi buồn hay sao. Đúng là tại sương thu thật, mù mịt đầy trời...
Một buổi sớm, tôi đi dạo lang thang trong nắng thu, thì lại gặp cô gái. Cô đi bán lá sen. Những bó sen ép chặt đầy quang.
- Hết mùa sen rồi hả cô?
- Ừ, hết mùa sen rồi. Chỉ còn lá.
Mùa thu, mùa cốm mới. Những hạt cốm xanh biếc gói trong mảnh lá sen xanh ngắt, buộc sợi rơm vàng. Lá sen thơm, cốm thơm, sợi rơm cũng thơm.
Những cô hàng cốm tranh nhau mua lá sen của cô. Lá sen tươi như còn ẩm hơi sương. Còn thừa một chiếc lá, cô lấy che đầu. Nắng thu vàng chói làm má cô đỏ rực nẻ căng.
Tôi xin chiếc lá. Bẻ những mẩu cuống nhỏ. Cuống gẫy, tơ sen lướt thướt tơ trời.
- Nhà cô có đầm thả sen. - Tôi hỏi.
- Vâng.
- Đầm rộng và trong không?
- Đầm sen nào mà chả trong.
- Bao giờ cho tôi về chơi, bơi đầm sen nhé!
- Mời anh.
- Sợ thầy mẹ em không ưng.
Những mảnh tơ sen dài lướt thướt quấn quít ngón tay tôi. Tôi và cô gái đã quen nhau. Rồi cô nói chuyện về chiếc đầm sen trước cửa nhà mà cha cô hồi trẻ đã đào để thả sen nuôi cá. Hoa sen góp phần nuôi sống cả nhà. Mùa hạ bán hoa. Mùa thu bán lá. Cuối thu bán gương sen. Mùa đông bán hạt sen già để làm mứt tết.
Cô cho tôi ăn những chiếc gương sen, trong những lần gặp sau. Hạt sen non ngọt thơm, tan trên đầu lưỡi. Nhưng tôi vẫn chưa có dịp về chơi đầm sen. Cô bảo: Anh biết chèo thuyền nan không? Mùa hè, thuyền ngập trong lá và hoa. Đầu thu, thuyền trôi trên những cánh hoa sen rụng bồng bềnh trắng mặt đầm. Tôi nghĩ bao giờ học xong, cầm bằng tốt nghiệp trong tay, là tôi sẽ từ trường đi thẳng tới đầm sen.
Tôi mong mong đợi đợi mơ hồ.
Thời gian dần trôi. Có một hôm tôi lại giật mình. Bởi mùa hạ mới lại đến rồi, hoá ra tôi đã sống qua suốt một mùa lạnh. Và như thế là đã lâu lắm tôi không gặp cô gái. Nhưng mùa hạ đến tức là hoa sen đã nở. Tôi nhìn lịch, càng bàng hoàng khi nhận ra, vào cữ này, hoa sen đang rộ. Tại sao không thấy cô gái đến. Chiếc lọ gốm năm ngoái vẫn nằm chỏng trơ dưới chân giường, chẳng ai ngó ngàng. Tôi cũng không khêu chuyện hoa sen năm ngoái làm gì, sợ cả bọn trách móc. Chúng mà nhớ ra là chúng trách cô gái thật đấy.
Chiếc lọ gốm không có hoa sen đến mùa hạ thứ hai thì bị môt cậu nào đó đá vỡ. Mảnh ném ngoài bãi rác. Tôi cũng chả ngồi đếm mùa hạ mùa thu làm gì nữa, vì cô gái đã bặt tăm.
Tôi đã thi tốt nghiệp, và ra trường. Do trình độ Anh văn khá, được tuyển vào làm cho một Hãng đầu tư của Nhật, lương cao. Bây giờ, mỗi ngày tôi có thể mua cả bó sen trắng đẹp nhất để cắm, nhưng không hiểu sao, chẳng thiết.
Một hôm tôi có nỗi buồn. Do sai sót tý chút trong kỹ thuật, tôi bị ông chủ mắng chửi, doạ đuổi việc, và giơ thẳng tay tát một cái vếu má. Khi cơn thịnh nộ của ông ta lui, tôi mới hoàn hồn.
Ra khỏi văn phòng, tôi đi lơ vơ trên đường phố, thấm thía nỗi nhục nhã. Biết lấy gì để xua nỗi buồn. Phương pháp cổ điển: rượu và gái! Tôi vào một quán Karaôkê sang trọng. Tôi đâu có giọng hát. Nhưng mà cái giống karaôkê loa vọng lên réo rắt, nghe cũng xuôi tai. Vô tình bật đúng bài “Hoa sen trắng” tôi gân cổ hát:
Em gái nhỏ ngày xưa
Xuống đầm hoa sen tắm
Trắng muốt trong nước xanh
Giữa rừng hoa sen trắng
Em cũng thành bông sen
Trắng ngọc ngà tinh khiết
Cùng mở nhị ngát hương
Giữa trời xanh nước biếc.
Thu đến hoa sen tàn
Nhị vàng rơi lả tả
Đời em cô gái nhỏ
Có mùa thu không em.
Trong ánh đèn mờ mịt như sương thu, một cô tiếp viên vào rót cho ly rượu Mác ten, nâng tận môi. Ngật ngưỡng tôi vừa nhấp rượu vừa hát, giọng khàn khàn vịt đực. Vừa hát vừa vuốt ve bờ vai để trần mát rượi của cô gái. Cô cúi sát hôn vào cái má bị tát sưng vếu của tôi. Không thích các cô tiếp viên hôn, tôi né tránh. Nhưng mặt sát mặt, làm tôi giật mình ngờ ngợ. Với tay bật đèn sáng, tôi chết sững, cô gái cũng chết sững. Bởi đó chính là cô gái bán hoa sen trắng ngày xưa.
- Có lẽ nào...
- Vâng, có lẽ nào...
Cô gái cúi gằm mặt rất lâu. Nhưng hình như cô đã uống vài ly. Còn tôi thì đã bồng bềnh. Các món ăn tiếp tục bày ra. Toàn thứ quý giá đắt tiền. Cua bể, chim quay, nấm nhồi thịt. Cô gái với tay tắt công tắc đèn. Căn phòng lại chìm trong khói thuốc lá mù mịt.
Em gái nhỏ ngày xưa
Xuống đầm hoa sen tắm
Tôi tiếp tục cất giọng khàn khàn. Bàn tay tràn ngập cảm giác êm ái do làn da thiếu nữ căng tròn đem lại. Cô gái ôm lấy tôi, run nhè nhẹ. Tôi cũng ôm lấy cô.
Chúng tôi vừa hát, vừa ăn, vừa uống, vừa hôn nhau. Đôi môi son phấn của cô thơm thơm. Nhưng có lúc tôi bất chợt nếm thấy vị mặn chát. Cái gì vậy? Món ăn nào để lại hương vị ấy trên môi cô mà lạ thế.
Cô gái chùi nước mắt. Và rồi lại nhoẻn cười. Nụ cười dù cố gắng mấy cũng không giống nụ cười cô gái bán hoa sen ngày xưa.
Bồi bàn bưng vào món ăn cuối cùng, trịnh trọng giới thiệu: “Xin mời anh nếm “Kim Chi Ngọc Diệp”. Cô gắp cho tôi những cọng dài dài trăng trắng như ngó cần, vị chua ngọt. Chán mọi thứ béo ngậy, món này ăn nghe được.
Lúc thanh toán, nhìn hoá đơn món “Kim chi Ngọc diệp” đắt cắt cổ. Chả biết nó là cái gì.
Buổi karaôkê kết thúc, tôi vội vã chia tay cô gái, sau khi để lại số điện thoại. Ngay tối ấy nghe giọng cô ở đầu dây. Mọi xao động bàng hoàng đã đi qua, chúng tôi bình tĩnh trò chuyện cùng nhau.
- Sao em bỏ đầm sen, bỏ những bông sen trinh trắng đi làm tiếp viên?
- Sao anh dám vào quán karaôkê uống rượu ôm gái?
- Những bông sen trắng của tôi bây giờ đâu.
- Làm gì còn sen trắng nữa.
- Đầm sen đâu?
- Cũng chẳng còn đầm sen nữa.
- Thế là thế nào?
- Anh có nhớ hương vị của món Kim chi Ngọc diệp?
- Sao không...
- Chua, ngọt phải không anh?
- Ừ, chua... ngọt...
- Có đắng không?         
- Không
- Với em thì nó đắng lắm đấy.
Máy điện thoại bị gác giữa chừng. Tôi với cô gái nghĩ cho cùng, người dưng nước lã! Nhưng ơ hay, sao đầu óc tôi cứ vương vấn hình cô. Hình bóng bông sen trắng muốt đẫm sương ngày xưa không chịu nhường cho hình bóng người nữ tiếp viên son phấn bây giờ...
Cho đến một hôm, tôi chủ động gọi điện hẹn tới công viên. Hai người ngồi bên ghế đá giữa vạt hoa cúc vàng đầy bướm bay.
Cô gái thút thít khóc. Tôi chùi nước mắt cho em, nghe em kể chuyện. Hoá ra những ngày tôi hoài công mong đợi tiếng rao: “Ai mua hoa sen trắng” lại chính là những ngày đầy biến động của đời cô. Quen thuộc các nhà hàng khách sạn do đem hoa đến bán, cô được người ta gợi ý bán cho họ nguyên liệu để làm món “Kim chi ngọc diệp”. Giá cao lắm. Đắt bằng mấy chục lần so với hoa sen. Kim chi ngọc diệp, đó chính là các ngó sen. Cô đã lặn hụp dưới đầm vặt trụi hết lứa mầm sen này đến lứa ngó sen khác.
Cô làm hăm hở. Tiền đến ngay một lúc, rất nhiều, mà chả phải chờ cây sen hứng từng ngụm nắng giọt sương để trổ lá đâm hoa. Các nhà hàng hối thúc cô. Món “Kim chi ngọc diệp” được khách thừa rượu thịt ưa chuộng. Mầm sen ngó sen cũng chả kịp mọc với cô nữa, chứ đừng nói đến hoa sen. Hoài hơi cho tôi đợi tiếng rao “Ai mua hoa sen trắng”. Ngó sen, mầm sen bị triệt hạ đến mức cho đến một ngày kia đầm sen của cô đã chết hẳn, chỉ còn lại chiếc hồ đầy bùn và xác rễ sen.
Nhưng dù đầm sen đã chết, cô cũng chả cần. Bởi vì trong những tháng năm lui tới các nhà hàng khách sạn bán ngó sen, mầm sen, cô đã lọt vào “mắt xanh” một “bà chủ”. Bà nhìn thấy hương sắc như bông hoa sen trắng của cô. Tiền, vàng, đô la, áo quần nhung lụa, phấn son, tiếng nhạc, ánh đèn màu và điệu nhẩy vanxơ êm ái của các chàng trai giàu có hào hoa phong nhã đã quyến rũ cô. Cô từ bỏ chiếc đầm sen đã chết nơi quê nhà, từ giã người cha già suốt ngày ngồi tựa cửa sưởi nắng để ra thành phố.
Và chính vì thế mà tôi đã gặp cô trong quán karaôkê trong cái ngày bị ông chủ tát vếu má...
Chia tay cô gái, lòng tôi bình lặng, dửng dưng. Giữa thành phố xa lạ này, tôi quen một cô gái xinh đẹp. Chẳng cần phải tốn tiền vào quán, chỉ cần nhấc máy điện thoại là có thể gặp nhau. Bờ vai trần của cô mát rượi như trăng rằm. Và trong lòng cô chắc vẫn dành một góc trong trẻo cho tôi.
Tôi được lợi quá rồi. Còn hờn trách cái nỗi gì?
Vậy mà sao lòng cứ rượi buồn nuối tiếc. Mỗi mùa hạ đến, nhìn thấy hoa sen trắng lại sững sờ.
Đại Yên 1-1998



Sân tranh
C
hiếc La Đa của công ty du lịch bỏ quốc lộ ngoặt vào con đường sỏi đỏ. Mari đưa mắt nhìn phía trước: một cái làng tịch mịch. Tre xanh vây quanh kín như thành và cổng thành là mái tam quan cong cánh điều.
Mari bước vào trong làng. Con đường lát đá phiến giống lối đi trong các lâu đài cổ châu Âu. Những ngôi nhà bên đường dây leo um tùm. Trên các bờ cỏ, giấy phết điệp vàng ngà phơi san sát.
Mari hơi ngạc nhiên. Một cái làng mà tên gọi khá quen thuộc với các Viện bảo tàng mỹ thuật, nhà sưu tầm tranh dân gian, công ty xuất nhập mỹ nghệ... mà nhìn khắp làng không hề thấy bóng dáng công xưởng ấn loát, trụ sở giao dịch sang trọng, và những biệt thự mê hồn của các nghệ nhân danh tiếng giàu có.
- Xin giới thiệu, đây là ông chủ nhiệm hợp tác xã tranh xuất khẩu Đông Hồ - Người hướng dẫn du lịch giới thiệu với Mari một người đàn ông tóc hoa râm, nét mặt rám nắng, tươi tỉnh.
- Rất hân hạnh.
- Bà khách muốn tham quan làng tranh, muốn nghe anh kể chuyện về nghề tranh - Người hướng dẫn nói tiếp. - Bà có ý định sau này ký một hợp đồng lớn mua tranh Đông Hồ. Bà là thành viên Ban quản trị một công ty xuất nhập mỹ nghệ của Pháp... Mong anh vui lòng giúp đỡ bà khách...
*
*    *
- Mari! Mày đứng đấy à - Lão già Đaliê quát. Mari luýnh quýnh. Cô bé kê ghế kiễng chân gỡ những bức hoạ trên tường xuống. Những cái khung thật nặng và nhiều kiểu. Có loại mạ vàng chạm hoa văn cổ. Có loại ghép bằng đá màu, có loại bằng tre trúc còn nguyên mấu đốt.
- Lột tranh đem ra đây!
Đaliê hối hả đặt nó vào trong những hòm bằng sắt đúc nặng trịch. Còn tượng đồng, tượng gỗ, tượng đá, phù điêu mặt nạ, đồ gốm, thì lão quấn vải cẩn thận, đệm bông xung quanh, đóng hòm gỗ thông.
Hai cha con làm suốt ngày không nghỉ. Mồ hôi chảy xuống nhỏ giọt trên hàng ria mép vàng óng, nhọn hoắt của lão già. Lão đưa tay gạt những dòng mồ hôi có lẫn nước mắt.
Như một súc thịt nặng nề, lão nhích từng bước, lưng oằn xuống. Từng hòm sắt, hòm gỗ được đặt ngay ngắn trên thùng chiếc cam nhông cũ kỹ.
- Mang cỏ khô lại đây phủ lên... Thế... Thế... Được rồi. Đây chỉ là một chiếc xe chở cỏ... cỏ... Chỉ có thế thôi.
Lão già Đaliê vuốt bộ râu ướt đẫm khoan khoái.
- Thôi, bây giờ con hãy khoá tất cả cửa lại... Con gái ngoan của ba.
Lão già Đaliê bước lên cabin. Tiếng máy xe nổ khục khặc.
- Ba ơi, con hãi lắm, cho con đi với.
- Không được... Cứng rắn lên! Con đã là người lớn... Lui ra để xe chạy - Lão già quát.
Chiếc cam nhông trườn bánh trong bóng hoàng hôn bắt đầu buông phủ xuống thị trấn. Nó phóng điên cuồng liều lĩnh về phía rừng xa. Bàn tay lão già cầm vô-lăng
còn chắc chắn lắm. Lão huýt sáo và ngoặt thật táo bạo.
Chiếc xe nuốt con đường đêm trong quầng pha vàng đục của mình... Khà khà... Lão già mỉm cười. Cứ thông đồng bén giọt thế này chỉ chừng đến nửa đêm là lão đã có thể ngồi uống sâm banh với người gác rừng, vốn bạn cùng quân ngũ xưa kia. Và chừng năm giờ sáng là các hòm sắt hòm gỗ này đã được giấu kỹ trong các hang đá kín đáo mà không một tên lính Đức chiếm đóng nào biết lối.
Lão già vẫn tăng dần tốc độ. Bàn chân dận ga còn vững vàng lắm. Mắt mũi cũng còn tinh tường lắm. Lạy Chúa cho con đạt được ý muốn. Con lòng thành kính dâng lên Đức Chúa và Đức bà Maria lòng tin yêu vô hạn.
Xe ra khỏi thị trấn được chừng vài chục dặm đang đắc thắng lao đi thì lão già nghe một tiếng quát từ xa rụng rời người. Chiếc barie trước mặt hạ nhanh. Ánh đèn pha ở đâu bật sáng. Một tốp lính Đức lộp cộp bò ra như cua.
- Đi đâu? Chở cái gì? - Một tên súng lăm lăm trong tay hỏi.
- Thưa các ngài... Không có gì ạ...
Một tên Đức nhảy tót lên thùng xe. Lão già cũng nhanh trí leo tót theo, vạch cỏ khô lôi ra một két
sâm banh.
- Thưa các ngài sĩ quan Đức. Tôi là một lão già Pháp bao giờ cũng rất kính mến người Đức chiến thắng. Tôi muốn có một cử chỉ để tỏ lòng khâm phục các ngài... Loại sâm banh này là loại hảo hạng.
- Cám ơn - Bọn lính Đức cười hô hố. Nhưng cũng chính lúc đó, một tên đã ngồi vào ghế lái và đưa chiếc cam nhông rẽ ngoặt tới trụ sở tuần tra.
Lão già Đaliê run bần bật, mồ hôi lão vã ra như tắm, lại ròng ròng chảy thành giọt trên bộ ria vểnh vàng óng nhọn hoắt được tỉa xén công phu.
Tên đại uý Đức từ trong nhà bước ra, ngắm lão già từ đầu đến chân, nhưng khinh khỉnh, không hỏi một lời.
- Thưa ngài đại uý - Lão già cung kính - Đó chỉ là những bức tranh loàng xoàng, phần lớn là phiên bản, những tượng mỹ nghệ cũng loàng xoàng, tuyệt nhiên không có giá trị gì hết. Tôi là một người sưu tầm chơi, vừa chơi vừa kiêm nghề bán mỹ nghệ kiếm sống... Ồ, nghề nghiệp chẳng ra gì... Và những thứ kia đâu có nuôi nổi cái thân này. Ngài đại uý cho phép tôi được đi chứ ạ...
Tên đại uý nhấc một pho tượng đồng nhỏ, ngắm nghía. Lão già nhanh trí nói:
- Đó chỉ là đồ giả làm ở Pari.
- Giả hả... Ồ... Vậy thì nó cũng chẳng có giá trị gì, lão già cũng chẳng nên tiếc. Thôi để nó đây, ta làm cái chặn giấy.
- Dạ bẩm - Lão già Đaliê mếu máo giả bộ giống một ông già lẩm cẩm - Đại uý thương cho, của chẳng ra gì nhưng già này quý nó... Nó là kỷ niệm của lão...
- Ủa, hàng hoá kiếm sống thoắt cái thành đồ kỷ niệm hồi nào.
Tên đại uý cúi xuống lục tiếp, nhấc ra một bức phù điêu gỗ.
- Cái gì đây? Của xứ nào?
- Dạ cũng đồ tầm tầm của xứ Đông Pháp.
Tên đại uý quay lại phòng làm việc với hai “chiến lợi phẩm” trên tay vừa đi vừa dằn từng tiếng:
- Lão già chẳng phải nhà sưu tầm hay buôn bán tranh ảnh gì hết. Ta nói cho lão biết: Lão chỉ là một thằng ăn cắp... Ăn cắp! Không hơn không kém... Những thứ kia lão khoắng được của một viện bảo tàng mỹ nghệ nào đó...
- Thưa ngài oan cho tôi quá - Mồm lão già Đaliê méo xệch - Chúa ơi, còn có Chúa nữa không... Ngài ơi, cả đời tôi đã khổ công sưu tầm - Lão khuỵu xuống vì oan khuất - Thế mà ngài nỡ hạ nhục tôi, nỡ “phán xét” tàn nhẫn như thế...
- Không ăn cắp thì cũng là ăn cướp...
- Ngài có thể làm ơn định nghĩa giúp khái niệm thế nào là “ăn cướp” không - Lão Đaliê thốt một câu văn hoa nhưng vô tình làm tên đại uý chạm nọc. Hắn cười nhạt:
- Ta định nghĩa là: Nhốt lão già vào nhà kho. Ngày mai giải lên trình Đại tá. Đại tá là một người am hiểu mỹ thuật, ông ấy sẽ quyết định số phận những thứ kia.
Tên lính gác thúc báng súng vào tấm lưng còng của lão già. Lão bước lòm khòm. Nước mắt nước mũi tuôn ra ròng ròng... Chúa ơi sao Chúa nỡ ngoảnh mặt làm ngơ... Thôi thế là hết... là hết... Đồ chó má... Đồ ăn cướp... Ôi thật khốn nạn cho cái thân này quá! Khốn nạn cho cái xứ sở này quá!
- Hãy giả tôi một chai rượu để nó làm bạn với tôi đêm nay!
Lão già được như ý. Lão cầm chai rượu vào nhà kho đưa ngay lên miệng. Rượu rớt ròng ròng trên ria mép...
... Mấy mươi năm trước lão còn là một chàng trai dũng mãnh nổi tiếng quen lăn xả vào những miền đầy ruồi vàng, vắt muỗi, bùn lầy rừng rậm Đông Pháp, và sa mạc cháy bỏng nơi xích đạo. Lão nói được tất cả các thổ ngữ những nơi lão đến. Lão uống rượu thi được với những tù trưởng lão quen. Lão học thuộc được rất nhanh các bài dân ca xa lạ. Nhưng lão giỏi nhất là môn xoáy các hiện vật mỹ thuật của các xứ ấy. Lão làm nhanh như ăn cướp. Đóng quân càn quét ở đâu, lão lập tức xục vào các đền đài miếu mạo nhà mồ, để hớt nhẹ những pho tượng, phù điêu, tranh ảnh cổ, đồ gốm cổ... mà lão thích. Bước vào nhà ai, lão không ngần ngại gì mà không láo liên
nhìn lên bàn thờ ông vải nhà người ta. Kinh nghiệm cho biết: trên đó thường hay có của quý, nhiều khi là đồ vô giá, nhưng theo lão thì dân bản xứ hoàn toàn không biết về giá trị của nó. Lão kinh ngạc nhận ra rằng những xứ mà lão đến “khai hoá” lại có những sản phẩm nghệ thuật không ngờ...
Lão trở về Pháp, giải ngũ, đem theo vô vàn tranh ảnh, tượng, đồ mỹ nghệ các xứ. Lão vụt trở thành người giàu có. Từ một chàng lính tẩy lão trở nên nhà sưu tầm nghiên cứu mỹ thuật, một “nhà văn hoá” nắm trong tay một bảo tàng nhỏ rất độc đáo.
*
*    *
Ông chủ nhiệm hợp tác xã tranh xuất khẩu đưa Mari vào ngôi đình làng. Công xưởng ấn loát là đây. Mari nhìn thấy đủ các loại “hoạ sĩ”: người lớn, trẻ em... Tất cả đang mải miết với công việc của mình.
Những ván khắc để ngổn ngang. Những chậu đựng chất liệu in không phải sơn dầu, bột màu, thuốc nước... Mari không rõ là thứ gì, nó rất lạ. Người ta áp ván in tranh, tô màu một cách thận trọng. Tất cả các tranh vẽ đều “vặn vẹo” rất gần với cách vẽ của hội hoạ hiện đại.
- Bản chính những tờ tranh này đều vẽ cách đây mấy trăm năm - ông chủ nhiệm giới thiệu.
- Lúc đó ở phương Tây người ta đang vẽ theo phong cách cổ điển, vờn tỉa đường nét sáng tối giống như chụp ảnh - Mari so sánh.
Nắng non trưa vàng óng lung linh tráng vàng quỳ trên sân tranh. Mari chỉ tay vui sướng tựa nhận ra bạn cũ:
- Trong bảo tàng sưu tập của cha tôi từ mấy chục năm xưa đã có một số bức giống như thế kia.
Mari xem hết lượt, lấy ngón tay gãi vào những mảng mầu trắng, mảng xanh lam, mảng vàng trong như hổ phách trên tờ tranh.
- Không thể dùng máy để in được những chất liệu này. Vậy làm sao sản xuất được nhiều? - Bà hỏi.
- Vậy mà chúng tôi vẫn có đủ để ký những hợp đồng lớn với một số công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ của Nhật Bản, Hồng Kông, Thuỵ Điển, Liên Xô...
Nắng hanh reo nhè nhẹ như tiếng bọt bia tan trên những tờ điệp khô cong thơm phức. Mari bước vào trong đình. Bà đi xem quanh một lượt, giật mình. Trước mặt bà tưởng như có một cuộc triển lãm điêu khắc gỗ: trên khắp các đầu cột, xà, cốn, bò kẻ, diềm, đầu hoành la liệt những hình khắc. Thật là bất ngờ và kỳ thú. Là một người sành mỹ thuật, Mari mải mê sung sướng như phát hiện ra kho báu:
- Những bức tranh ở đây rất gần với các bức tranh phơi ngoài sân kia - Bà nói - Đình là chỗ linh thiêng, nơi thờ thần, sao các nhà điêu khắc thời xưa lại trình bày những tác phẩm mang màu sắc “phồn thực” thế này?
Bà kéo ông chủ nhiệm lại xem bức phù điêu “tranh truyện”: một cô gái đi gánh nước, một chàng trai nấp rình chạy ra ghẹo. Rồi chuyện có một chỗ khó hiểu: hai người chồng người lên nhau bên bờ giếng.
Một chàng trai khác ghen, bèn lấy ống xì đồng nã đạn vào lưng chàng trai kia tại trận.
Cả Mari và ông chủ nhiệm cùng bật cười.
- Rất tiếc là cha tôi đã không sưu tầm được một bức khắc gỗ nào như thế này - Mari nói.
- Đình này làm cách đây mấy thế kỷ.
- Tuyệt đẹp - Mari nắc nỏm - Tôi đang bị lạc vào giữa những bức phù điêu gỗ vô giá. Tôi nghĩ rằng những tác giả của các tác phẩm này, cũng chính là những ông tổ nghề tranh ở đây. Những phù điêu này giống những bức tranh kia lạ lùng...
*
*   *
Cha tôi nói chính cụ tổ bảy đời nhà tôi là thợ cả trạm khắc các bức phù điêu của ngôi đình này. Ngày giao việc, các bậc hào trưởng trong làng gọi cụ tôi - anh phó cả ra dạy:
- Hãy khắc tứ linh “long, ly, quy, phượng”.
- Dạ! Con chỉ biết khắc những hình con thích. Như thế nó mới đẹp:
- Hình gì?
- Hình diễn tả những cái đẹp nhất, quý nhất mà chính trời đã làm ra và đã ban cho con người.
- À, thế thì được - Nghe thấy nói là của quý của trời, các cụ yên tâm.
- Anh phó cam kết đúng như thế chứ.
- Sai đâu con xin chịu.
Và thề là cụ tổ tôi đi khắc hình con gái tắm lấy hoa sen che; hình con trai nâng “quả phục” trên ngực con gái; và những hình ảnh trai gái chồng người lên nhau...
Khi làm việc, cụ tổ tôi cấm ngặt không ai được đến gần. Chỉ cụ trong nhà với mấy người thợ phụ hầu hạ. Ngày khánh thành đình, làng mở hội rước sắc vua ban cho thành hoàng. Các hào trưởng áo thụng lam cung kính đứng chầu. Bỗng các cụ phát hiện ra các bức trạm cao tít viền quanh đình, tứ vi bát mạch, toàn là một thứ hình “nhảm nhí” cả. Trương tuần nọc anh phó cả ra để các cụ hỏi tội. Anh phó cãi:
- Thân thể con người ta là hình hài đẹp đẽ nhất mà chỉ có Trời mới nhào nặn trạm khắc nên được, có đúng không ạ?
Trai gái làng đứng quanh reo:
- Đúng lắm.
- Vậy là con chỉ sao chép lại “bản khắc” của trời thôi, thưa các cụ! Con đã thực hiện đúng điều cam kết.
- Đúng lắm - Dân làng lại hò reo.
- Trời mất bao công phu mới tạo ra được những hình thể tuyệt mĩ phi thường này. Các cụ dám cả gan chống lại trời, bảo đó là xấu chăng?
Các cụ đưa mắt nhìn nhau lúng túng. Quả là không ai dám chống lại trời thật.
- Còn những hình chồng người này - Anh phó tiếp - Cũng lại là phép màu của trời truyền lại cho con người. Chính trời đã dạy con người cách thức đó, không thì ai làm sao mà biết được. Và đó cũng là cái ân huệ lớn nhất của trời đối với con người. Các cụ định chối từ cái ân huệ ấy chăng? Các cụ không muốn con đàn cháu đống chăng? Nào ai dám chối từ xin cho con biết!
Các bậc hào trưởng lo lắng. Không, chả ai dám chối từ cả. Các cụ cũng khôn chán. Già thì già nhưng dại gì. Các cụ chả chịu hớ.
Trai gái làng reo vang dội.
Anh phó cả đứng dậy giữa sân đình, cái khố điều đỏ chói ngang lưng. Anh mỉm cười. Mọi người xúm vào tung anh lên.
... Những bức phù điêu tài ba ấy được khách tứ phương đến dự hội chiêm ngưỡng.
Danh tiếng cụ tổ tôi lừng vang. Nhưng cũng từ đó cụ mất luôn nghề phó cả làm đình. Hào trưởng các làng không dám mướn cụ nữa, sợ cụ lại “bắt chước” bàn tay trạm khắc của trời phen nữa!
Không được “bắt chước” trời bằng cách này thì “bắt chước” bằng cách khác! Tất nhiên! Cụ tổ tôi đâu có chịu. Cụ nghĩ ra cách lấy ván gỗ thị khắc tranh rồi in lên giấy. Ai thích thì cụ bán cho đem về nhà mà treo. Nghề tranh Đông Hồ bắt đầu ra đời từ đó...!
Nghề tranh Đồng Hồ hưng thịnh được mấy đời. Vào thời kỳ ấy thuyền các xứ đông, xứ đoài, xứ nam, xứ bắc của các lái tranh tấp nập cập bờ sông Đuống. Họ mua buôn, rồi về bán khắp chợ cùng quê các xứ.
Làng tranh mỗi năm một khá giả. Làng phát thì bao giờ cũng là nhờ có cái đình. Thì hẳn rồi. Cái đình làng tôi
có hình trạm khắc của cụ bảy đời nhà tôi ngày xưa mà lị. Chính những bức trạm khắc ấy “thờ” mãi đâm linh thiêng hiển thánh, mà xui phát tích ra nghề tranh. Các bức tranh bán bây giờ cũng chỉ là một dạng khác của hình hài các thánh hằn in trong đó. Đội ơn các thánh đi tắm, các thánh nâng “quả phục”,
thánh chồng người... rất thánh! Nói tóm lại người ta quên phắt ông thành hoàng chính cống có sắc phong hẳn hoi, được thờ trong khám nơi hậu cung, để quay sang thờ các vị thánh rất giống mình này. Mà thế cũng đúng thôi. Các ông thánh có liên quan đến nồi cơm của người ta mới quan trọng chứ. Còn cái ông thành hoàng vô tích sự kia chả làm được trò trống gì mà tên với tuổi lại dài dằng dặc Đại Hoàng-Quang-Tâm-Kính-thượng-đẳng-tối-linh đọc sái quai hàm mà chẳng hiểu ra làm sao cả...
Đêm hè trăng sáng, con trai, con gái làng tôi noi gương các vị thánh, ra đầm sen đầu làng bơi nồ nghịch. Hoa sen vì thế mà nở không biết bao nhiêu mà kể. Hương sen thơm không biết bao nhiêu là thơm. Nô nghịch chán, người còn ướt dòng và đẫm ánh trăng họ lên bờ giã giấy dó chày đôi. Người con trai thúc chày gỗ dậm nhịp, đồng thời đầu gối anh ta lại thúc vào đầu gối cô gái một cái (chắc cũng là chuyện làm nhịp!). Khi cô theo nhịp chày cúi xuống, mớ tóc rối bay đi hở ra đôi vai trần như vầng trăng trong mây. Nhưng rồi rất nhanh, vầng trăng lại khuất.
- Cụp cum... Cụp cum... cắc cụp cum.
Tiếng chày đuổi nhau âm vang trong đêm, xa đến mấy làng cũng còn nghe thấy. Thông thường thời gian để nhuyễn một cối dó là thời gian của một người từ lúc buông chày đầu tiên, đến lúc mồ hôi bắt đầu vã ra. Người con gái đã quen chẳng cần nhìn vào lòng cối, mắt cứ để đâu đâu, nhưng khi bắt đầu thấy mùi mồ hôi người con trai ngây ngây mặn mặn phả ra trong sương là bảo: “Dừng chày thôi anh!” Người con trai không bao giờ có được cái đồng hồ bằng khứu giác ấy. Bởi mồ hôi con gái khi rịn ra càng rịn càng thơm, hoà lẫn vào mùi hoa sen, mùi cỏ dập, không làm sao phân biệt được!
Những năm hưng thịnh, làng vui nhất vào cữ một chạp. Nắng hanh vàng hoe run rẩy. Khói những lò nung điệp nghi ngút đầu làng. Giấy vừa phết điệp màu ngà như nắng phơi đầy nội cỏ. Những người lái tranh nói giọng thổ âm khác nhau đến cất hàng, ngồi uống rượu hâm nóng trong các quán gianh. Những thuyền tranh đã ăn đủ hàng, căng buồm mở lái. Người lái trẻ bịn rịn từ biệt cô chủ “sân tranh” trên bến sông, hẹn dịp này sang năm trở lại.
Cô chủ đợi. Nhưng người lái kia không hiểu vì cớ gì không đến nữa. Một năm, hai năm rồi ba năm, cô chủ đi lấy chồng. Đến khi có con ngành ngãnh trên tay; khi gió mùa lên, trong nắng chiều vàng hoe cô vẫn bất chợt vô tình nhìn ra bến sông tưởng thấp thoáng cánh buồm quen thuộc.
Nhưng người lái ấy vẫn biệt xứ. Và theo năm tháng trôi, những người lái khác cũng thưa dần. Những quán rượu tháng chạp vắng hoe, gió bấc thổi ù ù trên mái rạ mỏng. Đêm đêm, những làng bên, vợ thức hỏi chồng: “Sao lâu nay không nghe tiếng chày làng Hồ giã dó nữa nhỉ!...”
Những năm nghề tranh phát đạt thì cha tôi oái oăm thay, lại là một người chơi bời dông dài. Công việc mẹ tôi phải cáng đáng. Tôi còn nhỏ cũng phải suốt ngày bò dài phết điệp, tô màu.
Tranh của mẹ bán ế. Lái chê mẫu cũ, nét nhoè, mầu nhợt, điệp mờ. Trong khi ấy các “sân” khác, tranh đẹp, bán đắt tôm tươi.
Cha tôi ngày trước đã khắc được một vài mẫu tranh khá. Các lái dìm giá, cò kè bớt một, thêm hai. Cha tôi chẳng thèm để ý đến cuộc mặc cả. Ông khinh khỉnh, hững hờ và lúc nào cũng ngà ngà hơi rượu. Hàng năm liền ông không sờ đến tờ điệp.
Năm ấy, tết đến nơi rồi mà nhà tôi túng quá. Mẹ thấy nguy, vứt hết tranh pháo, đòn gánh trên vai chạy chợ. Cha tôi lúc đó đang lo luyện chim thả hội tháng hai. Chim bay tập đã chụm lắm. Ngày nào ông cũng mặc áo the khăn xếp xách lồng chim sang xã bên, thả chim ở đấy rồi đi bộ về đón chim ở nhà. Một hôm thấy tôi bưng đổ chậu điệp đi, ông trừng mắt:
- Mày làm cái gì thế? - Ông rút một nan dại ra.
- Mẹ cất ván in đi rồi, không làm tranh nữa - Tôi cãi.
- Tại sao thế - Ông trố mắt như người trên trời
rơi xuống.
- Tranh nhà ta không bán được.
Cha tôi đứng lặng, mắt lơ láo. Đàn bồ câu từ trên trời hạ xuống đậu lên vai, quanh chân ríu rít mà ông không nhúc nhích.
Thế rồi thật lạ lùng sao, sáng hôm sau cha tôi bỗng sai
đóng chặt buồng bồ câu lại. Ông ngồi trên giường lừ đừ như lên cơn sốt. Tập giấy mộc trước mặt. Bút vẽ và những chậu mầu la liệt xung quanh.
Ông ngồi từ sáng đến non trưa, be rượu vơi quá nửa, giấy bút vẫn không động tĩnh. Tôi chờ xem mãi chẳng thấy gì chán quá bỏ đi chơi.
Đến trưa, mẹ tôi về chợ. Vừa bước vào đến cửa, đang cười nói, mẹ sững lại. Mẹ bước len lén vào buồng cất quang gánh rồi xuống bếp. Cha tôi đang cúi bò dài trên giường đưa nét bút mải miết.
Chiều hôm ấy cha tôi âu yếm gọi mẹ:
- Mình ơi vào đây một chút.
- Mình bảo gì em?
- Mình xem bức tranh này có đẹp không?
Nước mắt mẹ tôi dàn dụa, vừa mếu vừa cười:
- Đẹp lắm mình ạ.
Và chạy lăng xăng:
- Em đem ván mới ra cho mình khắc nhé.
- Ừ đem ra đây.
- Trời ơi năm nay nhà ta có mẫu tranh mới cả làng không ai có.
Mẹ tôi luýnh quýnh. Bà đem gỗ và bộ đồ dao khắc vẫn bỏ xó lâu nay, bày lên giường:
- Để em đi mua cho mình be rượu cốt.
Cha tôi ung dung đưa nét dao khắc đầu tiên trên thớ gỗ thị vàng ươm. Ông làm nhàn nhã như không. Hai ngày sau mẹ con tôi đã có mẫu ván mới để in. Tranh miêu tả ngày vinh quy của quan tân khoa
Trạng Chuột. Quan tân khoa mũ áo vua ban xênh xang cưỡi ngựa đi dưới bóng cờ, lọng, biển “ân tứ vinh quy” về làng. Mồm nhọn hoắt và râu vểnh dưới cánh mũ cánh chuồn trông rất ngộ. Vợ quan tân khoa ngồi kiệu, dáng e lệ thướt tha... Phía đầu đường xa, một con mèo “định mệnh” đón chờ...
Tranh in xong được xếp từng bó cất trong buồng kín đáo bí mật. Không một sân tranh nào trong làng biết nhà tôi có mẫu mới. Mẹ tôi đi bắt mối với các lái. Các lái mua được mẫu mới cũng giữ kín không cho nhau biết.
Nhìn sự vui sướng của mẹ tôi, cha tôi lại cắm đầu quỳ bò trên giường vẽ tiếp. Lần này người vẽ một bức tranh tươi sáng. Một con nghé tơ vểnh tai nghe tiếng sáo của cậu mục đồng trên lưng. Chiếc lá sen cách điệu rất tài tình che bóng y như chiếc tàn trên đầu chú bé. Vẽ xong cha tôi mỉm cười ung dung đề hàng chữ “Hà diệp cái thanh thanh” thật bay bướm.
Các lái kinh ngạc thấy sân tranh nhà tôi có những mẫu mới tuyệt vời đến như thế. Họ càng kinh ngạc hơn khi thấy người hoạ sĩ ra mẫu lại chính là cha tôi. Họ tới tấp đến đặt những bộ tranh truyện dựa theo tiểu thuyết Tầu hoặc truyện nôm khuyết danh, tranh thờ Ngũ hổ...
Cha tôi tu chí làm ăn được vài năm. Cảnh nhà sung túc. Các lái đều nói nét bút của cha tôi có thần. Nhà tôi trở thành một sân tranh có tiếng nhất làng. Đúng lúc ấy nghề tranh chuyển sang giai đoạn suy tàn: tranh bán ế, giá hạ đến mức lỗ vốn.
Tiếng chày giã dó im ắng bởi trên chợ tràn ngập một thứ “giấy tây” từ thành phố đem về. Giấy tây trắng, cứng và rẻ. Các loại phẩm mầu hoá học cũng xuất hiện, xanh, đỏ, tím có độ rất đậm đặc. Và dùng đơn giản lắm. Chỉ cần đổ chút nước lã vào khuấy lên là có thể chấm bút vẽ.
Đem màu hoá học vẽ lên giấy tây, nhanh như ăn cướp! Giá thành rẻ, bán một xu một tờ. Trẻ con nhịn ăn quà bánh đúc là mua được. Chỉ có một điều tranh giấy tây trông quá xấu. Giấy tây cứng láng, không quết điệp được. Phẩm hoá học lên màu sặc sỡ, nhoè nhoẹt nông chợt, trơ trẽn làm sao sánh được với một tờ tranh điệp! Tờ tranh điệp là cả một công phu. Giấy dó là thứ giấy như được dệt bằng mạng nhện ken xít, dày, xốp, chất liệu quý. Mỗi “hạt” điệp giống như một hạt xa-phia nhỏ xíu; khi phết lên tờ tranh có màu óng ánh.
Màu in tranh điệp là thứ màu chưng cất cầu kỳ từ cây cỏ tự nhiên. Màu của củ nâu, của lá chàm, lá tre, quả giành, hoa hoè, vỏ già, v.v... với sự pha màu tự thân của thiên nhiên. Nó không chối, loè loẹt như phẩm hoá học, nguyên si màu gốc. Từng bức tranh điệp lại có những mảng được nổi hằn lên rất quý do chất liệu: vỏ trứng giã, rỉ đồng xanh, nhựa thông màu hổ phách...
Làm công phu thì tất nhiên giá đắt và thế là tranh điệp bị tranh giấy tây, “cạnh tranh”. Mỗi lần trông thấy một tờ tranh giấy tây cha tôi lại cau có tức gận. Ông giận cả những sân tranh khác đã ồ ạt chuyển sang nghề tranh giấy tây. Nhưng ai người ta sợ cái giận của ông. Tranh giấy tây đánh lừa được trẻ con, mà trẻ con thì đông lắm! Chúng bấm bụng nhịn quà bánh đúc để mua một tờ
về dán ở nhà gọi là có tranh. Rồi thì hình như một hôm nào đó, cha chúng mắng: “Tranh với chả pháo, bôi bác loè loẹt trông bẩn cả mắt, xé đi”. Thế là chúng xé, và lần sau chúng chả dại gì nhịn ăn quà bánh đúc nữa. Bánh đúc chan riêu cua ăn với ghém chấm tương ngon lắm!...
Tranh giấy tây dần cũng không đánh lừa được ai nữa...
Một hôm có một người lái tranh, sau mấy năm biệt tăm, bỗng xuất hiện trước cổng làng tôi. Không biết đó có phải là người lái trẻ đã lỗi hẹn với cô chủ sân tranh ngày xưa không. Dù cho có phải thì cô chủ cũng không thể nhận ra trong phút giây bất giác vô tình nhìn ra bến sông khi gió mùa lên. Bởi không có cánh buồm nào cả. Ông ta đến bằng xe ngựa. Đỗ xe ngoài cổng đá, buộc ngựa bên gốc đề, rồi ông tiến thẳng vào nhà tôi.
- Trời! Lâu lắm không gặp ông - Mẹ tôi kêu lên - Tôi vẫn để dành cho ông nhiều mẫu tranh mới.
- Ồ... Ba thứ đó giá mắc thấy mồ sức mấy mà mua nữa.
- Hay ông mua tranh giấy tây?
- Loại một xu một tờ để làm giấy lộn sao? - Người lái cướp lời.
- Vậy ông muốn gì?
- Tôi đến đây để bán tranh cho ông bà!
- Trời đất - Cha tôi kêu lên.
Người lái dẫn cha mẹ tôi ra chỗ xe ngựa, lật tấm vỉ lên. Dưới đó chất lèn tranh, ông lần lượt giở từng xấp, mỗi xấp lấy một tờ mẫu. Những tờ tranh to bằng góc chiếu, in bằng máy, người giống như ảnh thật, màu sắc rực rỡ. Có tranh vẽ nàng tiên kim sa lóng lánh. Có tranh “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài” kề vai nhau. Có tranh in hình tướng Tầu mắt phượng mày ngài, tay xách long đao,
cưỡi ngựa xích thố...! Những tờ tranh thật rực rỡ và hấp dẫn đến không cưỡng nổi!
- Đây là tranh Thượng Hải bên Tàu bán sang. Đó mới là tranh chứ thưa ông - Người lái nói - Treo một bức, sáng cả nhà. Người đẹp như tiên, ông có thích không. Mà giá lại rẻ. Đây, một nàng tiên như thế này giá cũng chỉ tương đương con gà, con lợn, con cóc trên điệp của ông thôi! Đó, kỳ chưa! Thiên hạ giờ chịu xài tranh này, chớ ai khùng mà xài tranh của ông nữa...
Cha tôi ngẩn người ra một lúc. Ông ngắm kỹ từng tờ tranh Thượng Hải không nói một lời nào.
- Sao, ông có mua tranh của tôi không? - Người lái hỏi.
- Mua để làm gì? - Cha tôi ngạc nhiên - Tôi vẽ tranh để bán chứ có phải là lái như ông...
- Ồ... thật thà thế chết đói ông ơi - Người lái cười ngất - Tài hoa mà làm chi. Đừng có cậy tài hoa, tài hoa lắm, còng lưng nhiều. Ông hãy mua tranh của tôi. Tôi bán buôn cho ông. Rồi ông lại bán buôn lại cho các hàng nhỏ.
- Ông đi mà bán lấy, sao cứ phải qua tôi?
Người lái càng ngặt nghẽo:
- Nếu thế thì tôi chẳng cần gặp ông. Tôi muốn rủ ông nhập nghề.
- Xin lỗi, tôi có nghề của tôi rồi.
Người lái thôi cười, giọng trang nghiêm.
- Nhưng mà tôi cần ông. Ông là một hoạ sĩ nổi tiếng. Sân tranh của ông đã có uy tín. Người ta đã quen thích cái “sân tranh” của ông, do đó khi ông bán tranh Thượng Hải, người ta cũng tin, thích và mua nhiều.
- Không. Tôi không làm chuyện đó.
Cha tôi bỏ về. Biết tính ông “gàn dở” người lái lắc đầu, chạy theo:
- Nếu không thì xin biếu ông ít tranh mẫu này vậy, để dán nhà chơi. Nhà ông nhiều người qua lại. Nhờ ông nói dùm một câu: Đây là tranh của Lái Đà! Ai muốn mua thì gặp ông ta.
Sợ cha tôi từ chối, người lái vội cuộn tròn một đống dúi vào tay tôi. Tất nhiên là tôi thích lắm, đem về dán đầy nhà. Khi tiếng vó ngựa lộc cộc xa dần, cha tôi mới đặt dằn chén rượu xuống. Ông say hơn mọi hôm, rồi bỗng dưng ôm mặt khóc rưng rức. Mẹ tôi hốt hoảng với tay lên vách xé hết những tờ tranh Thượng Hải vò nhàu...
Áp tết năm ấy, tranh Thượng Hải của Lái Đà vỡ tổ. Khắp chợ thì quê đâu đâu cũng có. Tranh điệp không còn bán nổi một tờ nữa. Tranh ế chất đống trong buồng, mẹ tôi lại quang gánh lên vai chạy đầu chợ cuối chợ kiếm ăn.
Nghề tranh điệp thực sự chết hẳn từ đấy. Cả làng xoay nghề khác. Tiếng chày giã dó chỉ còn là âm thanh hư ảo của thời xưa để lại. Nắng hanh hình như cũng nhạt rồi, vì không có màu điệp phơi nữa. Trai gái làng ngậm ngùi nuối tiếc những mùa trăng...
Thế rồi có một đêm, cả làng bừng thức giấc
kinh ngạc. Trong đêm khuya, tiếng chày cụp cum cụp cum quen thuộc linh thiêng bỗng nổi lên vang động. Mọi người ngỡ như mình ngủ mơ, ngỡ nó chỉ là tiếng chày mơ hồ của kỷ niệm. Nhưng không, gió rì rào đem tiếng chày rất thật quấn quýt vào các mái rạ. Tiếng chày lọt qua khe liếp làm lung linh ngọn đèn dầu trên trõng. Những người nghệ nhân già chảy nước mắt xuống chiếc gối mây trằn trọc. Người vợ rút cánh tay làm gối dưới đầu chồng ra, bồn chồn mỉm cười một mình. Cô nhớ lại mùi mồ hôi ngây ngây mằn mặn và những cái thúc chân giậm nhịp chày thúc vào đầu gối mình thuở nào.
Tôi thức giấc chạy ra sân. Tôi sững sờ đứng nhìn. Trước mắt tôi, trong ánh trăng, cha tôi và mẹ tôi đang cúi lom khom giã dó, chày gỗ nghiến vung lên nhịp xuống, lòng cối ngân lên như tiếng khánh đá. Chính tiếng chày từ đây vang xa. Trông cha mẹ tôi trẻ trung hệt như một cặp trai gái mới làm quen nhau, rủ rê nhau đi giã dó chày đôi.
Sáng hôm sau, mẹ tôi ngồi xeo giấy phơi la liệt trước sân nhà. Tôi nói:
- Mẹ ơi, nhà ta còn bao nhiêu tranh ế, xeo giấy làm gì?
- Không phải việc của mày. Cấm hỏi - Cha tôi trừng mắt.
Tôi im thít. Cha tôi nheo mắt gật gù đắc chí nhìn giấy phơi trắng xoá dưới nắng. Rồi ông đi đốt lò nung điệp ngoài vườn. Chiếc lò mốc meo lạnh lẽo như nhà mồ bao ngày nay chợt bùng lên ngọn lửa đỏ rực. Mùi khói điệp quen thuộc bay nghi ngút trong gió bấc. Trong
ngôi nhà bên xóm, người vợ gọi  chồng “Mình ơi mùi khói điệp ở đâu ấy nhỉ, làm em nhớ nôn nao cả người!”.
Người chồng chạy vội ra đầu nhà hứng đầu gió hít hít
rồi kêu lên: “Ồ mùi điệp nung thật! Mùi điệp lâu lắm mới lại thấy đấy!”
Cha tôi càng ngày càng có gì ung dung đắc chí. Ông luôn mủm mỉm cười thầm.
Ông tự tay từ tốn phết điệp lên giấy dó phơi la liệt trên nội cỏ làm cho ai đi qua cũng phải nhìn. Ngày nào ông cũng sai tôi đi phơi điệp. Khi điệp khô cong rồi ông tạm nghỉ vài hôm. Rồi ông rảy nước vào cho ướt đẫm y như tờ điệp mới phết và lại bắt tôi đi phơi lại từ đầu.
- Cha ơi, cha làm gì thế? - Tôi nói.
- Không phải việc của mày. Cấm hỏi.
Thế là điệp lại được giăng khắp nơi y như nhà tôi vừa xeo xong một mẻ giấy nữa.
Buổi sáng cũng như buổi chiều, be rượu kè kè bên mình, cha tôi cúi lom khom trên giường vẽ vẽ khắc khắc. Các ván gỗ thị bày la liệt quanh mình. Các mẫu tranh mới cũng la liệt. Ai vào trông thấy cảnh ấy cũng phát hoảng. Trông cha tôi còn bận rộn gấp trăm lần những năm “sân tranh” nhà tôi đang phát đạt.
Nhưng ông vẽ để mà vẽ thôi, chứ không cho in bức nào cả. Bởi vì giấy điệp chỉ có hạn bằng ấy. Nó còn phải để dành, để khô, rồi lại được rẩy nước ướt phơi lại. Sân tranh này liên tục ra lò các mẻ giấy mà!
Đều đặn, đúng kỳ trăng tròn, cha tôi lại bắt mẹ tôi ra đầu sân giã dó chày đôi. Nhưng dó làm gì có nữa, hai người giã chày không vào lòng cối rỗng không.
Cụp cum! Cụp cum; cụp cum; cắc cụp cum... Càng không có dó, tiếng lòng cối đá càng vang càng trong. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chày như rót vào tai.
Sau mỗi cối dó “tưởng tượng” như thế, mẹ tôi thở dốc mệt lả, muốn rơi chày. “Một cối nửa”. Cha tôi hét lên. Mẹ tôi lại cố dướn người cho kịp nhịp chày...
Thời gian đầu các sân tranh đã giải nghệ đều ngạc nhiên. Họ kháo nhau:
- Ông ấy vẫn bán được tranh ở đâu nhỉ?
- Ờ hình như ở xa lắm, thỉnh thoảng vẫn thấy ông ấy gánh đi.
- Tranh sân ấy đẹp có tiếng mà!
- Thật là phúc cho nghề tranh. Còn giữ được một sân tức là còn... Nếu không thì mất giống.
Về sau thì họ thắc mắc:
- Quái lạ, bán được như vậy mà sao cảnh nhà ông ấy càng ngày càng túng bấn.
- Ông ấy uống rượu ngày càng nhiều.
- Suốt ngày vẽ tranh chẳng đi chơi nhà ai cả.
- Tôi ngờ lắm. Điệp đâu mà phơi nhiều thế.
- Cả tiếng chày giã dó nghe cũng khác lắm.
- Hay là...
Một tháng một lần cha tôi lại đàng hoàng đem tranh đi bán như thường lệ. Ông gánh hai tay nải đầy. Ba hôm sau ông trở về, vào lúc nửa đêm. Bởi khi về, ông vẫn gánh nguyên hai tay nải của lúc đem đi bán. Ông không thể cho ai nhìn thấy cảnh đó. Tôi biết không hề có chuyện bán chác gì cả. Ông gánh tranh đến nhà một người bạn nằm chơi rồi lại gánh về. Nhưng ông muốn cho cả làng thấy rằng: Ồng vẫn bán được tranh như ngày trước!
Không may cho ông, một lần vì nhỡ đò, ông về đến làng trời sáng bạch. Tất nhiên là không giấu đi đâu được hai tay nải tranh.
Mấy người gặp ông ở cổng làng, đưa mắt nhìn ngờ ngợ. Một số thì không phải là ngờ ngợ nữa mà là biết tỏng sự việc rồi. Có một chàng trai làng giật lấy tay nải ông. Chàng trai này chính là người ra mẫu bức tranh “Lợn nái ăn ráy” có tiếng. Anh thỉnh thoảng vẫn tỏ ý ghen tị với cha tôi. Trước đây anh hay “gièm” những bức tranh của cha tôi. Sân tranh của anh thoi thóp rồi “phá sản” vào giai đoạn cuối thời kỳ tranh suy tàn. Anh “tức nực đầy vơi” khi thấy sân tranh của cha tôi vẫn sống. Anh nghi ngờ, rình mò. Khi biết rõ sự thực, cơn “tức nực đầy vơi” của anh biến mất. Nhưng cái tính thích trêu đùa một cách vô duyên của anh thì vẫn còn nguyên. Hôm nay “bắt gặp quả tang”, anh cười cợt xông vào mở tung nút thắt tay nải. Cha tôi giằng lại. Anh giằng đi. Hai người co kéo nhau. Từng xấp tranh điệp đổ ra rơi đầy xuống đường.
Anh phá lên cười lớn. Nhưng khi không thấy tiếng cười của mọi người xung quanh hưởng ứng, anh chột dạ. Tiếng cười của anh vụt tắt. Gió thổi từng tờ tranh bay lên tan tác. Cha tôi xông vào tát anh một cái, rồi ôm mặt khóc hu hu như đứa trẻ.
Tất cả mọi người không ai nói một câu. Những cặp mắt ngó trân trân những tờ tranh tựa bươm bướm mà gió cứ thổi cho bay xa. Cha tôi không nhặt lại. Còn chàng trai kia thì đứng sững sờ từ lúc nào. Bỗng nhiên anh cũng ứa nước mắt mếu máo:
- Bác ơi! Bác đánh cháu nữa đi bác! Đánh thật đau vào...
... Đêm hôm đó chàng trai trở về. Rồi anh gọi những người bạn của anh - chủ những sân tranh khác. Đúng lúc trăng lên anh cầm một chiếc chày gỗ nghiến, cô gái
hàng xóm cầm một chày gỗ nghiến, hai người cùng giã xuống lòng cối đá rỗng không theo nhịp ngày xưa.
Mới đầu chỉ có tiếng chày của anh. Nhưng lát sau bất đồ cùng vang lên tiếng chày của những sân tranh khác!
Cụp cum! Cụp cum! Cụp cum cắc cụp cum... Tiếng chày nọ gọi tiếng chày kia.
Khúc nhạc làng tranh ríu rít. Tiếng chày quyện vào nhau vang dội âm ba, lay động cả một vùng.
Tiếng chày của những mùa trăng xưa...
Cha tôi ngơ ngác, ông không hiểu cái gì. Ông chạy ra đầu nhà. Ông chạy đi lang thang trong ngõ. Ông ngây ngất trong khúc hoà tấu của tiếng chày...
Lái Đà trở lại chợ phiên tuần ấy. Như mọi khi lái đỗ xe ngựa chất đầy tranh Thượng Hải ở đầu xóm. Đêm áp phiên, lái nhậu nhẹt trong quán, đùa cợt với cô hàng rượu goá chồng. Tay giữ chặt cái ví dạ cá nhầy nhụa căng phồng bên thắt lưng, lái lè nhè cười khẩy thương hại cái làng tranh tàn tạ.
Nửa đêm lái tỉnh rượu gỡ vòng tay cô gái goá ra hỏi:
- Cái gì lửa sáng bập bùng ngoài kia?
Cô hàng rượu rúc đầu ú ớ: rét quá!...
- Bỏ ra - Lão đạp ả, quát lên rồi chạy tới chỗ xe ngựa. Cả xe tranh của lão đang bốc cháy. Lão rú lên, gào lên, lăn xả vào ngọn lửa.
Cô hàng rượu chạy ra. Hai anh ả nhảy choi choi kêu khóc. Ngọn lửa đượm gió thổi bùng không kịp dập. Khi trời rạng đông, xe tranh của lão chỉ còn là đống tro tàn gió thổi tung trên nội...
*
*   *
Chiếc La đa đã mở cửa sẳn. Mari nhìn lại lần cuối cùng cái làng tranh mà bà rất thích. Bà thấy tự hào là mình đã đến đây. Và bà cũng rất vui, bởi chuyến du lịch này mà rồi đây bà có thể ký một hợp đồng mua bán khá lớn. Bà đã xúc động khi nghe câu chuyện thăng trầm của làng tranh xứ này. Đặc biệt bà rất lưu ý câu chuyện về người cha của ông chủ nhiệm. Bà nhớ lại người cha của mình trong những năm Đức chiếm đóng nước Pháp. Câu chuyện về người cha của bà kết thúc ở chi tiết bi tráng nhất: Nửa đêm hôm ấy lợi dụng bọn Đức canh gác lỏng lẻo cha bà đã lẻn ra cướp lại cam nhông chở tranh tượng phóng chạy. Bọn Đức phóng mô tô đuổi theo hạ lệnh quay lại. Cha bà không chịu. Chúng xả súng bắn. Và cha bà ngã gục trên vô lăng, máu xối đỏ ca-bin. Cái kết thúc ấy theo bà rất gần với cái kết thúc mà người cha của ông chủ nhiệm đã đốt xe tranh Thượng Hải (Thực ra ông không đốt, mà do chàng trai làng tác giả bức tranh “Lợn nái ăn ráy” kia đốt - Bà hiểu nhầm). Tất nhiên, bà nói, câu chuyện người cha bà bi hùng hơn nhiều, nhưng bà vẫn vui vẻ hạ nó xuống mức tương đương với người cha ông chủ nhiệm.
- Tạm biệt ngài - Bà chia tay - Tôi với ngài thật bất ngờ, có một lý do để đồng cảm.
Chiếc La đa xập cửa từ từ chuyển bánh. Bà giơ tay vẫy...
1980

Tiếng nổ ngoài kịch bản
C
ả thị trấn kinh ngạc. Thằng Đạt trước đây lang thang nghèo đói, đi đâu một thời gian, giờ trở về, xây nhà tầng, mở cửa hàng “Cà phê Thành Đạt” đẹp nhất phố. Chỉ có điều xưa nó cao lớn mặc quần soóc lộ đôi chân rắn chắc rất đẹp, còn giờ thì một chân giả bằng nhựa. Cái chân thật đâu mất nhỉ? Ai hỏi nó chỉ cười nhạt: tai nạn!
Cửa hàng của nó sang trọng. Trai gái phố huyện hay mời nhau vào đây. Cà phê ngon, thuốc lá thơm, bánh trái ngọt, chỗ ngồi đẹp, video chiếu liên tục. Toàn phim “xã hội đen” của Mỹ bắn giết nhau như ngoé. Phim chưởng Hồng Kông đấu võ tít mù. Phim Sex thoải mái không quần áo. Ghen tị với người lành lặn, nó chỉ tạo “công ăn việc làm” cho người nào “một chân” giống nó: mướn ông già Chiến trong làng ra chạy bàn. Già Chiến là thương binh hồi chống Mỹ cũng cụt chân, lắp chân gỗ. Chân gỗ thô sơ, đi lại cót két nặng nhọc hơn, kém hẳn cái chân nhựa chế tạo tinh xảo đi không phát ra tiếng động của nó.
Giả sử ông Chiến cũng có tiền lắp chân nhựa, chưa chắc Đạt đã mượn ông.
Cửa hàng đắt khách, thu nhập khá. Chủ thợ biết điều, hoà thuận. Làm ăn có cơ phát đạt. Ông già Chiến vui lắm, chân gỗ mà đi lại thoăn thoắt. Dù sao lợi nhuận ở đây hơn hẳn thu nhập trồng rau nuôi lợn ở nhà. Lại vui. Lúc nào cũng có khách tán chuyện...
*
*    *
Đạo diễn Hakin và đoàn làm phim Mỹ bước xuống sân bay Đà Nẵng. Nắng chói chang ngằm ngặp. Lòng ông dâng lên nỗi buồn ký ức. Hai mươi năm xưa ông đã ở đây, những ngày không vui.
Theo chương trình đã thoả thuận với chính quyền địa phương, Hakin sẽ cho quay một số trường đoạn có bối cảnh Việt Nam. Đó là một phần quan trọng trong bộ phim có nhan đề “Ảo ảnh” đang thực hiện.
Trong làng điện ảnh, Hakin chỉ là nghiệp dư, làm tài tử. Nhưng đã hai mươi năm nay ông nung nấu ý đồ về bộ phim này. Và bây giờ, thời điểm chín muồi, ông đã thế chấp biệt thự, vay tiền để làm. Được ăn cả ngã về không. Với ông, bộ phim này không phải là một “trò chơi” điện ảnh với các pha giải trí mua vui, mà là sự chứa đựng tâm hồn ý nguyện của ông, với giá trị hiện thực phản ánh một đoạn đời ông.
Hai mươi năm trước đây, Hakin đến Việt Nam trong vai đại uý thuỷ quân lục chiến. Tất nhiên là với lý tưởng “Bảo vệ tự do” như tổng thống Mỹ nói. Chàng đại uý
có đủ văn hoá để hiểu cái lý tưởng siêu nhân, người hùng bách chiến bách thắng là giấc mơ hão huyền của con người trút vào “nghệ thuật thứ bảy”. Nhưng chàng muốn “lập nghiệp võ công”, muốn thể hiện “sứ mệnh,”. Căn cứ do Hakin phụ trách đóng trên một dãy đồi được mệnh danh là “Căn cứ luỹ thép”. Xe tăng, đại bác, khí tài tối tân, đầy đủ. Đại uý tự tin, thề đè bẹp bất cứ cuộc tấn công nào của Việt cộng. Và mong muốn có một cuộc đọ sức để tài năng quân sự của mình được bộc lộ.
Chờ mãi chả thấy cuộc tiến công “trực diện” đàng hoàng nào, nhưng đùng một cái, đêm Nôen, lính Mỹ đang vui tết, một tốp đặc công “xuất quỷ nhập thần” độn thổ thế nào mà lại đánh từ trung tâm căn cứ ra. Tơi bời khói lửa. Kho đạn, kho bom nổ. Chính bom đạn của Hakin lại huỷ diệt căn cứ của Hakin. Đại uý tận mắt trông thấy một tên Việt cộng bé tẹo như trẻ con, ngang lưng chỉ độc một cái quần đùi, còn người trát đầy đất ngụy trang, đang nhanh như sóc tung hoành nã đạn, quăng thủ pháo. Tưởng như hắn có phép “Thần thông phương Đông cổ” giống như trong phim chưởng. Không biết sợ là gì, hắn cứ lao đầu vào nơi nguy hiểm nhất. Hakin quyết bắn què chân hắn, bắt sống bằng được để “nghiên cứu”. Hai người chạy vòng vèo quanh con hào bê tông ngoặt khúc. Hakin đâu thiếu lòng dũng cảm. Đại uý to gấp đôi hắn, lại đang ở chính trong căn cứ của mình. Nhưng kết cục không ngờ. Vừa giáp lá cà, hắn đã nhanh hơn, táo bạo hơn, xổ một tràng AK trước khi Hakin kịp bóp cò.
Thế là Hakin gửi lại luôn cái chân cho mảnh đất xa lạ này, trở về Hoa Kỳ mang chân giả tập tễnh tản bộ trên đường phố quê hương.
Ức thật. Tên đặc công đó đã trốn thoát. Và chẳng hề hấn gì. Vẫn còn hai chân nguyên lành.
Hai mươi năm nay Hakin luôn bị ám ảnh về sự kiện đó. Luôn ngủ mơ thấy. Tỉnh dậy mồ hôi đầm đìa cay đắng sờ cái chân cụt có thật, đang còng queo như khúc gỗ trên nệm. Vợ Hakin tìm đủ mọi cách mà không thể nào quen được cái khúc thịt lủng lẳng ấy. Khi làm tình nàng chỉ thuần thấy một cảm giác kinh tởm. Cực chẳng đã nàng phải xin Hakin “giải phóng” cho mình.
Bộ phim “Ảo ảnh” này chính là câu chuyện cuộc đời Hakin từ tuổi trẻ mộng mơ đến sự thật cay đắng!
... Dãy đồi xưa Hakin lập căn cứ thép tất nhiên là vẫn còn nguyên đó. Hakin ấn định cảnh quay phải chính nơi đây, chứ không phải là một nơi giông giống nào khác dù nơi đó gần thành phố có đầy đủ tiện nghi.
Cuối thu, trời trong se lạnh. Cảnh quay ngắn thôi. Sẽ chỉ là hình ảnh người chiến sĩ đặc công bắn què chân đại uý Mỹ rồi chạy thoát. Đạo diễn đã chọn một chàng trai Việt Nam thủ vai này. Không cần phải diễn viên chuyên nghiệp. Người đóng không cần nói một câu đối thoại. Chỉ cần hành động. Sự diễn xuất chủ yếu ở phía người đóng vai thuỷ quân lục chiến Mỹ.
Đạo diễn Hakin đứng chỉ huy cuộc quay. Tiến trình diễn ra khá sinh động. Kỹ thuật khói lửa cực giỏi, y như cảnh chiến đấu thật. Người chiến sĩ đặc công chạy đến chỗ ngoặt, bất ngờ quay lại choãi chân mắm môi (theo đúng kịch bản ghi) rồi bình tĩnh xả súng. Nhưng kìa, anh chưa kịp bắn thì một gói thuốc nổ “kỹ thuật khói lửa” nổ bùng dưới chân như thật (điều này không có trong kịch bản). Đúng ra đó là gói thuốc nổ thật. Nổ ngoài kịch bản. Không phải nổ giả vờ. Không phải nổ kiểu điện ảnh mà là nổ kiểu mặt trận. Chứng cớ là nó hất tung anh lên. Một cái chân của anh bay đi. Máu tuôn như suối. Anh hét lên giãy giụa.
Ba bốn máy camêra cũng quay cận cảnh, trung cảnh pha “diễn xuất” ấy. Cái chân bằng xương, bằng thịt bay vèo trên mặt cỏ. Máu đỏ thật, chứ không phải mực đỏ. Và anh la hét đau đớn thật.
Còn viên đại uý Mỹ thì đứng nhếch mép cười. Kịch bản ghi hắn phải diễn xuất pha bị bắn gãy chân. Vậy mà bây giờ camêra lại làm việc với cảnh hắn nhìn đối phương mất chân và cười đắc thắng...
*
*   *
Tiệm cà phê thị trấn đêm nay đóng cửa sớm. Thành Đạt ngồi trầm ngâm trước tờ báo “Văn hoá thể thao”. Hắn vừa đọc ở đó tin: Bộ phim “Ảo ảnh” của đạo diễn Hakin vừa được giải thưởng lớn ở Hoa Kỳ. Kèm bài viết là những bức ảnh trích trong phim.
Ông già Chiến thu dọn xong cốc đĩa, tập tễnh ngỏ cửa ra về, thì Đạt giữ lại mời uống rượu.
- Bác Chiến này, bác bị thương mất chân ở mặt trận nào nhỉ?
- Khe Sanh.
- Chắc bác vẫn thắc mắc không hiểu vì sao giữa thời bình mà cháu cũng mất chân? Cháu định giấu điều này xuống mồ. Nhưng hôm nay lại thấy không nên giấu. Và cũng chẳng cần giấu điều này nữa. Tại sao cháu giàu vọt lên nhanh chóng có tiền xây nhà, mở cửa hàng... Bác xem những bức ảnh này...
Ông già Chiến cầm tờ “Văn hoá thể thao” đưa lên mục kỉnh. Ảnh trong phim: khói lửa mù trời, một người chiến sĩ Việt cộng đang bị mìn nổ bay mất chân...
- Cháu đấy!
- Cái gì? - Ông già Chiến trố mắt.
- Cái người chiến sĩ Việt cộng trong phim này là cháu đấy. Cháu đang bị mất chân đấy.
- Cậu đùa... - Ông Chiến cười cười - Đây là đóng phim mà. Cảnh kỹ xảo.
- Không. Cảnh thật đấy.
Rồi Đạt kể tất cả cho ông già Chiến nghe. Bắt đầu từ chuyện anh lên thành phố chơi với người bạn làm nhân viên của một hãng phim. Rồi người ta giới thiệu anh với đạo diện Hakin. Hakin trả thù lao 200 đô để anh thủ vai “chiến sĩ đặc công” trong chốc lát. Anh sướng quá. Một khoản tiền. Thế rồi thực tế ở trường quay diễn ra ngược lại với kịch bản. Anh bị mất chân, mất thật! Không hiểu ra làm sao cả. Thật là cơn ác mộng. Tại sao lại như thế. “Kỹ thuật khói lửa” mà để sơ suất chết người như vậy thì cụ tổ ai còn dám đóng phim nữa.
- Tại sao chú mày không kiện - Ông già Chiến bừng bừng.
- Kiện chứ! Nhưng có một chi tiết này mà cháu không ngờ. Xem lại hợp đồng đóng phim thì có câu: “Trong quá trình đóng phim nếu chẳng may bị thương do sơ suất của kỹ thuật khói lửa thì tuỳ theo nặng nhẹ mà diễn viên tình nguyện chấp nhận khoản tiền đền bù từ 5000 đôla đến 20.000 đôla”.
Từ bé cháu có biết đóng phim là cái gì. Xem phim video Mỹ thấy người bắn giết nhau như ngoé, máu chảy đầu rơi rùng rợn, hiểu đó chỉ là kỹ xảo điện ảnh. Nên cũng chẳng quan tâm đến điều khoản này trong hợp đồng. Vì thế...
Cháu được đền 20 ngàn đô cho cái chân bị mất...
Ông già Chiến trầm ngâm:
- Đóng phim chiến tranh có thể có tai nạn. Tao đọc báo xưa còn nhớ một chuyện: có ông nhà văn kiêm nhà điện ảnh cỡ lớn của Liên Xô trước đây, tên là Súc Sin, chính ông ta đã bị sơ suất kỹ thuật khói lửa giết chết khi đóng phim.
Nhưng chuyện mày mất chân thì tao ngờ. Nó chủ ý đặt thuốc nổ, và chính cảnh thật ấy vào ống kính sẽ gây hiệu quả nghệ thuật ghê gớm mà không một cảnh quay kỹ xảo nào thay thế được.
- Nghệ thuật gì mà dã man thế.
- Tao đọc báo còn biết có một bộ phim Mỹ quay ở Phi Líp Pin, trực thăng còn nã đạn thật, chết người thật, diễn viên đóng vai quần chúng kinh hoàng thật.
Để chúng thu vào ống kính những “khuôn hình nghệ thuật vô giá”. Để phim của chúng được giải. Lợi nhuận cao. Rồi chúng lấy đô la đền mạng những người nghèo số phận tôm tép, đã nhận đóng vai đám đông theo cái hợp đồng “hấc lờ”. Y như trường hợp của chú mày.
- Nếu thế thì đểu thật. Khốn nạn thật - Đạt đấm tay đổ tung chén rượu.
Ông già Chiến, người bộ đội năm xưa, với sự từng trải, đâu thiếu kinh nghiệm xét đoán sự đời. Đọc hết bài báo giới thiệu cuộc đời thật của cựu chiến binh - tác giả Hakin và giá trị bộ phim “Ảo ảnh”, ông thở dài:
- Hắn trả thù đời!...                     
          Hà Nội 1994




Chế tạo tình yêu
Truyện khoa học viễn tưởng

Đ
ại lộ đêm rực rỡ như quang phổ mặt trời. Một cơn lũ người và xe du lịch xuôi ngược tấp nập. Người ở đâu mà nhiều thế không biết được, và đi đâu mà chen chúc thế kia.
Một ông già châu Á bé nhỏ lững thững bước dạo.
Gió biển thổi ràn rạt như làm nguôi bớt độ sôi sục của cái thành phố Đảo vĩ đại, đầu mối giao lưu hàng hải quốc tế với đủ các mầu da hiệp chủng cư trú này.
- Chào ông Pitơ Trần, thời tiết hôm nay đẹp.
- Vâng chào ông, tôi nghĩ rằng thời tiết không xấu.
Ông già Trần lại thơ thẩn bước! Giữa phố đông mà vẫn có người quen. Nhưng cũng chẳng biết nói chuyện gì với nhau.
Âm nhạc từ các phòng trà dội ra ầm ì còn hơn cả tiếng sóng biển vỗ quanh thành phố Đảo. Tiếng còi xe cũng chỉ như là một tiếng kèn mơ hồ trong dòng thác âm nhạc.
Không chủ định mà ông Trần cứ bước theo một cô gái da trắng đi đồng chiều. Đẹp, vẻ đẹp cổ điển, muôn thủa. Hao hao như trong các tranh thờ, trẻ măng và da mịn như sứ.
Cô gái cao hơn ông từ tai lên, dáng nét quý tộc kiêu kỳ; mà lại không có vẻ gì là người giàu có. Có thể đi làm về (đoán thế). Ngồi mẫu cho hoạ sĩ vẽ khoả thân chẳng hạn. Người kia mà làm mẫu thì tranh sẽ bán được. Hoặc đóng phim, một vai phụ nào đó...
Tất nhiên cô gái không một lần liếc đôi mắt xanh biếc và loé sáng về phía ông già nhỏ thó, củ rủ cù rù trong chiếc áo măng tô này.
Rồi cô đi, đi mất, biến vào trong dòng người. Ông Trần thở dài.
Cô bé kia sẽ còn đẹp vài năm nữa. Ngồi làm mẫu cho hoạ sĩ vẽ vài năm nữa. Rồi đi lấy chồng. Cũng một người đẹp trai. Một chuyên viên kỹ thuật chẳng hạn. Ngày ngày hai vợ chồng đi làm. Không có của cải tích luỹ, không cổ phần, không lợi tức thường niên. Cô gái có con... không làm mẫu được nữa, chuyển sang một việc gì đó. Thư ký hãng buôn chẳng hạn. Thời gian và lao động dần vắt kiệt sắc đẹp. Hết không còn hao hao giống tranh thờ. Không còn làn da sứ. Không còn đường nét đôi vú như đỉnh núi tuyết, không còn làn eo như suối chảy. Mắc một bệnh gì đó, kinh niên, mãn tính v.v... hoặc đau gan, ung thư vú v.v... xong một đời người.
Đời, đó là như thế. Chỉ thế mà thôi. Có là cái gì ghê gớm lắm đâu.
Đời... vô nghĩa!
Ông Pitơ Trần vẫn lững thững bước. Lòng chán ngán, chán tất cả. Ngày xưa. .. tuổi già hay nói đến ngày xưa... Ngày xưa ông, chàng thanh niên có cái tên lai Âu, Á Pitơ Trần (do tự đặt), cũng trẻ đẹp, giống sự trẻ đẹp của cô gái kia. Đầy háo hức vào đời. Cơn lốc của chiến tranh đưa ông từ một xứ sở tre trúc rơm rạ đến cái siêu đô thị Đảo - một thế giới thu nhỏ lại này.
Hai tay trắng, cậu thanh niên phải làm những việc hầu hạ ban đêm trong khách sạn để đủ hai bữa ăn trong ngày và quyết chí học. Ham muốn tạo nên tồn tại.
Không có ham muốn, tất cả diệt vong. Chàng trai khao khát cái truyền thống mà dòng họ anh đời đời khao khát: Chiếm lĩnh bảng vàng bia đá! Vạn ban giai hạ phẩm. Duy hữu độc thư cao (Mọi nghề đều hèn hạ, chỉ đọc sách là cao quý).
Các cụ tổ nhà anh đời nào cũng nhắm mắt mơ màng cái cảnh “Thanh thanh hà diệp cái. Liểu liểu liễu ti chiên. Bộ bộ giao kim lạc. Thanh thanh yết trạng nguyên” (Lọng che đầu, roi ngựa ruổi, tiếng nhạc mỗi bước đi, tiếng hò reo đón trạng nguyên...) Rồi đầy đường những cô gái đẹp tranh nhau xem chàng áo xanh chiếm bảng khôi khoa... “Hoa cù hồng phấn nữ. Tranh khán lục y lang”. Anh đã thoả nguyện, đã được đội chiếc mũ tiến sĩ (không phải mũ cánh chuồn thêu rồng phượng như tổ tiên anh; mà là mũ tiến sĩ Tây với mảnh bìa bọc lụa đen phẳng tẹt trên đỉnh - Dù sao thì cũng là tiến sĩ). Anh không có năm thê bảy thiếp để các nàng thay phiên nhau nâng chén quỳnh; nhưng cũng đã kết hôn được với một cô gái da trắng
là màu da mà anh cho rằng thượng đế đã quá ưu đãi với nòi giống này. Anh kiêu hãnh vì sự hoà huyết đã tạo nên sự đột biến gien của dòng họ anh: Một đứa con với nhiều ưu thế lai trong sinh học.
Anh đã cố đủ hết. Một gia tài, một địa vị không đến nỗi nào trong nghề nghiệp. Một chút tiếng tăm (là chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực chế tạo rôbốt). Nói to tát, anh là một nhà khoa học, nhà phát minh sáng chế.
Nhưng cùng với thời gian, những cái đã có dần mòn đi, mất mát đi. Sự chán nhàm của cái gì lặp lại đều đều. Sự lãng quên của mọi người. Một ông già mệt mỏi, uể oải, chán chường dần thay thế cho chàng trai đầy háo hức ham muốn. Người vợ trẻ dần trở thành bà “đầm già” với tất cả đặc trưng khó chịu của nó. Cảm giác chán đời dần thay thế cho niềm say mê cuộc sống.
Điều ông Pitơ Trần ước mơ nhất bây giờ là: trở lại với thời thanh niên và sau đó là không bao giờ già, không bao giờ chết. Nhưng thời thanh niên tái sinh này, không phải là hai tay trắng hầu hạ ban đêm trong khách sạn; mà là chàng thanh niên trẻ Pitơ tài năng đã thành công; đã giầu có - những thứ của ông Pitơ già hiện tại!
Điều mong ước không bao giờ thực hiện được ở cõi trần. Còn ở thế giới thần linh nhiệm màu thì không biết.
Ống Pitơ Trần bắt đầu sự chán đời bằng học thuyết “thượng đế sinh ra con người chưa hoàn chỉnh”. Trước hết là vật liệu. Những vật liệu dễ hỏng, dễ bị đâm thủng, đập vỡ. Những vĩ nhân quyền bao trùm hành tinh; những đại đế giơ bàn tay che được cả mặt trời;
những “người khổng lồ thời đại” ký một chữ, nói một câu làm xoay chuyển cả bánh xe lịch sử; những thiên tài viết cả vạn trang dạy dỗ giống người, những nhà khoa học làm cho con người từ chỗ chỉ biết dùng lực của cơ bắp đến chỗ có những phương tiện như trong thế giới thần thoại... Nhưng chỉ cần một vài con vi trùng bé xíu, nhỏ đến mức không nhìn thấy, nhỏ chỉ bằng một phần triệu hạt cát, cũng có thế quật ngã chết đứ đừ như chơi! Oái oăm thế đấy!
Không bị vi trùng quật chết thì cũng bị thời gian quật chết. Những vật liệu mau lão hoá... Ngoảnh đi ngoảnh lại đã già khú đế, các “linh kiện” ọc ạch hết mà không có phụ tùng thay. Cái cô vợ da trắng tạm gọi là đẹp như tiên sa của ta bên trong là một kho bệnh. Viêm dị ứng mũi; viêm rễ thần kinh; đái đường, ngoại tình với người cùng chủng tộc. Không có thuốc nào chữa được các bệnh đó, nhất là bệnh cuối cùng.
Một cái răng bé tý thế mà hành hạ con người ta suốt từ lúc ấu thơ đến lúc già.
Một cái chuyện “yêu đương” cũng thế! Cái quan hệ người nam với người nữ là một tấn bi kịch không bao giờ kết thúc... Cái chuyện tình yêu bao trùm tất cả các sản phẩm nghệ thuật. Nó không bao giờ cũ và hấp dẫn người ta đều đặn như cơm gạo với dạ dày con người. Nó đơn giản, quy luật, mà cung bậc thiên hình vạn trạng, biến hoá bí hiểm đến mức con người không thể nhận thức được nó!
Tính hai mặt đối lập, mâu thuẫn mà thống nhất, là cái oái oăm nhất của cuộc đời; khiến cho người ta dù là đại thánh nhân cũng chỉ như kiến bơi giữa biển không bao giờ đến bờ; không ai hiểu nổi cuộc đời này.
Mọi sự trên đời có lý tương đối trong phạm vi hẹp và vô lý tương đối trong phạm vi tổng thể. Chân lý hay phi lý phụ thuộc vào “lăng kính” của mỗi người.
Chỉ có chân lý của khoa học là đích thực! Nền văn minh cơ khí với chiếc đầu máy hơi nước mở đầu là đích thực, không bịp bợm được ai...
Những chiếc rôbốt của ta chế tạo thì càng hiển nhiên là đích thực. Chỉ có chuyện này là khoa học bó tay: không chế tạo được tâm hồn, số phận của con người. Y học cứu chữa xương thịt tim phổi, nhưng không mổ xẻ, tiêm thuốc được vào tâm hồn...
Từ cái mạch tư duy hỗn độn mênh mông vô tận cùng kia, trong ông Pitơ Trần vụt loé lên cảm hứng chế tạo một rôbốt với chất liệu phủ ngoài giống hệt da thịt người.
*
*    *
Mọi việc coi như đã gần xong. Ồng Trần cho rôbốt cái tên khá sáo “Vênuýt”. Cấu tạo bằng chất siêu dẫn, rôbốt Vênuýt có bộ óc gần như người, biết tư duy, cảm xúc, cảm ứng, biết làm các động tác tinh vi khéo léo.
Đặc biệt chất liệu phủ ngoài. Dự kiến chất liệu sẽ mềm đàn hồi, nhiệt độ 37°C. Màu da trắng hồng giống hệt da thịt thật.
Ông Pitơ Trần đang đi tìm một người đẹp thực ngoài đời, để “dập khuôn” rôbốt của mình theo hình hài ấy. Thiên tài sáng tạo khoa học của ông bị dừng lại ở chỗ không biết tạo vóc dáng, đường nét dung nhan thế nào là đẹp nhất! Chỉ còn cách cóp pi mẫu ngoài đời thôi.
Nếu không có mẫu, Vênuýt của ông sẽ được tạo hình bằng trí tưởng tượng điên loạn của các hoạ sĩ trừu tượng, người vặn vẹo, mặt xanh lè, bắp tay to hơn chân... Cuối cùng thành dị hình dị dạng. Hoặc chân phương quá theo các số đo trung bình của các bác phó may thì sẽ thành cô gái quê cổ lỗ của các thế kỷ trước... Nói tóm lại là ông không biết mũi nên dài bao nhiêu thì đẹp, đường cong lượn của má, của cằm, của môi thế nào là vừa. Vòng ngực, vòng eo, vòng mông, vòng đùi bao nhiêu thì gợi cảm...
Và khó hơn nữa là làm sao lột tả được tâm hồn con người trên gương mặt. Điều này thì ông Pitơ Trần hoàn toàn bó tay, chỉ cần 1/10 milimét độ nghiêng, độ cong đường nét, môi mắt, là vụt đổi thay từ thông minh thành đần độn; từ đa cảm thành trơ đá, từ tế nhị thành trơ tráo...
Ông Trần không muốn Vênuýt của mình có gương mặt giấy bồi. Không, Vênuýt phải biểu thị các trạng thái tình cảm, phải truyền cảm tới người đối diện mạnh như một luồng điện.
Điều này, chỉ có cách là sao chép của tự nhiên...
Một buổi tối, ông Pitơ Trần lại dạo chơi trên đại lộ, và lại triền miên trong lý thuyết chán đời, đời vô nghĩa, thượng đế sáng tạo con người chưa hoàn chỉnh, thì bỗng gặp lại đúng cô gái mặt hao hao Đức bà tranh thờ
bữa trước.
Cô đi tất tả, vội vã, và đẹp ra đẹp. Mắt xanh biếc, sáng rực, làn da như sứ, con người như có cánh cứ chực bay bổng lên.
Mẫu của cái đẹp đây chứ còn đâu! Rôbốt của ông “phô tô cóp pi” theo con người này!
Sao lại không được! Cũng giống như cô ta ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ vẽ chứ gì. Ngồi làm mẫu, cởi áo choàng ra, khoả thân đến từ sợi tơ trên người, và các hoạ sĩ đói ăn hì hục vẽ. Tiền công vài đô la một giờ, không hơn. Còn ta, ta sẽ trả vài trăm đô la một giờ, hàng ngàn đô la nếu cô ấy muốn!
- Xin chào tiểu thư - ông Pitơ Trần lễ phép tiếp cận.
- Chào ông.
 - Tôi muốn phiền tiểu thư một chút, tiểu thư cho phép.
- Ông cứ nói.
- Có lẽ hơi dài dòng., xin tiểu thư quá bộ vào quán nhấp ly rượu, không trở ngại chứ ạ.
 - Cũng được thôi.
Cô gái ngồi chăm chú... Nghe xong chuyện, cô gái gật đầu bằng lòng vội.
Ngày hôm sau, Mêri (tên cô gái) đến phòng thí nghiệm của ông Trần để bắt đầu công việc theo hợp đồng. Ông đo đạc tính toán từng milimét các bộ phận trên thân thể cô. Hai người vừa làm vừa trao đổi xã giao.
- Tiểu thư bao nhiêu tuổi ạ.
- Mười tám.
- Cô thường xuyên ngồi làm mẫu cho các họa sĩ?
- Tại sao ông đoán tôi như vậy. Hiện tôi đang
thất nghiệp.
- Cô đẹp quá.
- Vậy à... Tôi cũng không rõ nữa. Nhưng ông chế tạo chiếc rôbốt này để làm gì?
- Cũng khó nói. Tôi cứ làm theo ham muốn riêng của mình thôi.
- Ông chế tạo được một chất liệu giống hệt da thịt người?
- Vâng
- Ông là một thiên tài khoa học (nói như người đời thường quen mồm gọi các nhà phát minh sáng chế). Vậy chắc ông rất giàu.
- Có thể.
- Chắc ông cần người giúp việc thường xuyên trong phòng thí nghiệm.
- Có chứ.
- Tôi đang thất nghiệp, ông có thể tuyển tôi vào làm theo hợp đồng dài hạn không?
- Ồ, nếu thế thì thật là may mắn cho tôi. Không gì vinh hạnh hơn là được cô tới đây.
Ông Pitơ Trần chế tạo làn da cho rôbốt hệt như của cô Mêri, kể cả nốt ruồi son ở đùi. Ông không dám tạo mầu trắng hơn, vì sợ như thế sẽ phi lý. Ông sao chép cả từng sợi tơ trên người cô.
Kết cục khi rôbốt hoàn thành, thì thực sự không thể nào phân biệt được đâu là Mêri và đâu là Vênuýt.
Bà Pitơ Trần đang đem con du lịch lang thang trên quê hương Bắc Mỹ của bà, không biết bao giờ mới trở lại nhà. Ông Trần cũng không mong vợ về.
Thực tế hai người đã chán nhau như người dưng nước lã.
Biết làm sao được. Đời là thế! Nếu đi tìm cái nguyên nhân sâu sa thì đó cũng chính là cái nguyên nhân để ông Trần vụt loé cảm hứng chế tạo rôbốt Vênuýt này.
- Ông Pitơ, làm sao phân biệt được tôi và rôbốt Vênuýt bây giờ - Mêri buồn phiền lo lắng.
- Đó cũng là nỗi băn khoăn của tôi hiện nay.
- Trong khi chờ đợi có giải pháp, đề nghị ông lấy nhọ nồi đánh dấu trên trán Vênuýt.
- Vênuýt sẽ phản đối, sẽ chùi đi.
- Ông phải ra lệnh. Ông là chủ kia mà!
Với điều khiển từ xa, công tắc rôbốt được đặt bí mật trong chiếc răng nanh bên phải. Khi về vị trí OFF rôbốt sẽ ngừng hoạt động nằm yên như người ngủ; chỉ còn đơn thuần là một khối vật liệu bất động. Khi PLAY rôbốt sẽ từ từ dụi mắt, ngáp một cái, tung chăn ngồi dậy cho chân xuống đất tìm dép (không cần vào toa lét để tiêu hoá) và bắt đầu hoạt động. Nó biết đỏ mặt lên hoặc tái mặt đi phản ứng trước dòng điện sinh vật toả ra từ người đối diện. Nó đối thoại thông vắn tắt. Tuỳ từng đối tượng. Bàn về văn chương, nó sẽ tiếp chuyện văn chương. Bàn về thế sự nó khá “ưu thời mẫn thế”. Bàn về chính trị, nó biết đưa ra những ý nguyện của nhân dân khát vọng cải cách xã hội, những sách lược cứu nguy kinh tế,
những chiến lược khu vực hay hoàn cầu. Còn về toán học thì khỏi phải nói, không ai giải phương trình nhanh bằng nó, một giây giải hàng vạn phép tính cho kết quả tức thì.
Nhưng điều kỳ diệu nhất của rôbốt Vênuýt là dường như nó có tâm hồn, biết buồn vui giận dỗi yêu thương. Nó biết ôm ấp, vuốt ve, hôn hít và hiến dâng thân xác trinh nữ cho khoái lạc tuyệt đỉnh với người nó yêu thương.
- Ông Pitơ, rôbốt của ông là một tiến bộ kỹ thuật, nhưng giá thành quá đắt. Đẻ và nuôi một đứa trẻ từ nhỏ đến thành thiếu nữ “rẻ” hơn nhiều, ai cũng có thể làm được. Và điều cơ bản này nữa: rôbốt của ông là đồ vô dụng, vì xét cho cùng nó chẳng để làm gì. Tính toán thì đã có máy tính chuyên dụng; lau chùi nhà cửa thì đã có con sen thằng ở, còn tâm sự chuyện trò thì đối thoại với người thật thú vị hơn với người máy chứ! Đích thực nó vô dụng rồi - Mêri phản đối.
- Tôi cô đơn, tôi cần có tình yêu.
- Cái gì - Mêri ngạc nhiên - Tình yêu của ai?
- Rôbốt Vênuýt yêu tôi theo lệnh của tôi, cho tôi khoái cảm tình dục, cái mà cả loài người lúc nào cũng khát khao, mà ít ai được thoả nguyện.
- Ông có vợ?
- Đó là một mụ phù thuỷ với thân hình già lão
nhăn nheo.
- Thì ông hãy đi yêu một cô gái trẻ đẹp.
- Tôi không còn tuổi mười tám đôi mươi như cô. Tôi làm sao còn được “sở hữu” một tấm thân trẻ trung xinh đẹp nào nữa.
Ông Pitơ Trần đau đớn thở dài.
- Ôi tội nghiệp ông Pitơ - Mêri ngồi lặng trên xa lông. Tấm rèm trắng như tuyết sa run phần phật ngoài cửa kính. Nắng chiều một tia vàng óng rọi vào.
*
*    *
... Cánh cửa phòng bằng gỗ sồi bọc đuya ra xịch mở. Ông Pitơ Trần bước vào. Rôbốt Vênuýt nhoẻn miệng cười như làn gió mát xua đi những mệt nhọc biểu hiện ở những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán ông.
Nàng bước lại, đôi tay trần trắng nuột nà đỡ lấy ông, và như dìu ông đến xa lông. Rồi nàng bưng đến một ly bia sủi bọt.
- Cám ơn.
Vênuýt đứng hầu bên cạnh như một tỳ thiếp, đứng hầu ông quan đội mũ cánh chuồn thời xưa. Ông Pitơ ấn định một nền giáo dục quý tộc cổ phương Đông với nàng. Nhưng tất nhiên là có sự pha tạp những hành vi tự nhiên thoải mái thuộc lối sống phương Tây.
Đó là một sự hài hoà. Bởi vì ông Pitơ thích sự e lệ của thiếu nữ phương đông; nhưng cũng thích cả sự nổi loạn híp pi của thiếu nữ hiện đại phương Tây.
Vênuýt rút mùi xoa chùi trên môi ông Pitơ. Rồi nàng hôn vào đó, hôn rất lâu, đắm đuối. Nàng ghì chặt lấy ông thầm thì “anh yêu của em”.
Hồn nhiên tựa như một con chim non, nàng nhấc nếp váy mỏng nhún nhẩy như sắp sửa điệu vũ. Nàng
múa thật, mà điệu múa cũng là sự pha trộn các điệu dâng chén quỳnh của các vũ nữ Nghê thường lẫn các điệu Vanxơ.
Chiếc váy mỏng trên eo nàng từ từ rơi xuống. Ông Pitơ bước lại. Nàng nhắm mắt lim dim, và bây giờ thì ông dìu nàng tới canapê đặt ngồi lên lòng mình, đồng thời vuốt ve nàng.
- Cưng của anh.
- Hoàng tử của em.
- Chúng ta hạnh phúc.
- Đúng vậy.
- Em có mơ ước gì?
- Suốt đời sống bên anh.
- Em trẻ mãi không già.
- Tất nhiên... Em được ăn đào tiên của Tây vương mẫu ban cho.
- Em có gì buồn không?
- Không! Được sống bên anh - một thiên tài khoa học, một người siêu đẳng, em như là người ngủ mơ được vàng... Còn anh, anh có gì buồn không?
- Được sống trong vòng tay em, anh tạm quên hết mọi sự khó chịu của cuộc đời.
- Ừ, ngoài đời kia đáng chán lắm. Chỉ có tình yêu của chúng ta là trên hết tất cả thôi.
- Hình như trái tim em đang đập mạnh.
- Đúng, vì đang nằm trong vòng tay anh.
- Hơi thở của em nóng hổi.
- Hơi thở của tình yêu!
- Em của anh bất tử.
- Và thiên tài của anh cũng làm anh bất tử. Chúng ta cùng sống mãi với thời gian. Ôi, hạnh phúc quá, anh Pitơ hãy đặt tay lên ngực em, hãy cho em những cảm giác ngây ngất mê say.
... Cánh cửa phòng gỗ sồi bọc đuyara sáng loáng lại xịch mở. Lần này thì Mêri bước vào. Cô gái lắc đầu buồn bã.
- Ông Pitơ, ông điên mất rồi, hãy tỉnh lại.
- Cô là ai - Vênuýt chỉ tay.
- Tôi là Mêri! Tôi là người, còn cô, cô chỉ là rôbốt, là người máy... Ông Pitơ, tôi phản đối, tại sao ông cho phép Vênuýt xoá vết nhọ nồi trên trán! Ông Pitơ, tôi vẫn cho rằng các thiên tài siêu phàm thường điên điên một chút. Điên đáng yêu! Nhưng riêng ông thì rồ nặng thật rồi. Tôi vừa nghe hết những lời đối thoại. Tại sao ông lại bố trí những cụm từ cóp nhặt từ các vở bi kịch rẻ tiền vào vùng đại não siêu dẫn của rôbốt.
- Cô Mêri, cô nên nhớ rằng cô là người làm công trong nhà, còn tôi mới là bà chủ. Tôi là người yêu, người vợ trọn đời của ông chủ Pitơ... Thế nào, những cụm từ này thì không phải do nhà khoa  học Pitơ bố trí trong vùng đại não siêu dẫn chứ.
- Trời ơi - Mêri sững người, lùi lại kinh hoàng - Thế này là thế nào?
Hai tay Mêri ôm lấy mặt. Vênuýt mỉm cười.
- Sao không đánh dấu nhọ nồi vào trán cô, để khỏi lẫn cô với tôi, lẫn lộn giữa người làm công với bà chủ... Mà tệ thật! Sao cô lại giống tôi như cùng một khuôn đúc thế. Cô là cái bóng trong gương của tôi!
- Ông Pitơ hãy nói gì đi - Mêri gào lên.
- Nói gì - Vênuýt đưa mắt - Hãy im lặng, anh đừng nói, để em nói... Cô Mêri, cô gái hợm hĩnh ơi, với thời gian tóc cô sẽ bạc đi, da cô sẽ nhăn nheo, ngực cô sẽ tóp lại, mắt cô sẽ đục đi... lúc ấy cô chả còn giống tôi được nữa. Tôi thì cứ thế này vĩnh cửu, không một gợn thời gian nào vương được vào làn da này... Đấy, ai hơn ai,...
Còn bây giờ, cô được giống tôi như đúc, là phúc lớn cho nhà cô đấy.
- Nhưng mà ta là con người, ta có trái tim, có xương thịt, ta có linh hồn, có tình cảm. Còn mi chỉ là một đống dây dợ bóng đèn siêu dẫn nhằng nhịt bên trong.
- Cái bên trong đâu ai có nhìn thấy được. Chỉ biết làn da tuyệt mỹ của ta bên ngoài mềm mại ấm lạnh chẳng khác gì xương thịt thật của cô. Ta còn hơn cô ở chỗ: Trên làn da cô tuần này tháng khác biết bao sự cố, một chiếc mụn có mủ, một vầng rôm sẩy, một cái gai lỡ cào chảy máu. Những con vi trùng da liễu xâm nhập... Tởm lắm, xấu lắm! Còn làn da của ta vĩnh cửu, vĩnh cửu tươi mát, thơm tho trường tồn.
Thế nào? Cô Mêri! Loài người tự cho mình là có trí khôn, biết những lời ta nói là sự thật, vậy có công nhận không? hay là cô cũng mang một đặc tính chung khó sửa của loài người là chỉ coi là chân lý những gì có lợi cho mình, còn tất cả mặc xác, đen cãi thành trắng, trắng lý sự thành đen, mà lý sự loanh quanh thế nào nghe cũng xuôi tai, cũng lôgíc...
Mêri lao mình ra phía cửa trong tiếng cười đắc thắng giòn tan của Vênuýt...
*
*    *
Đại lộ đêm vẫn rực rỡ như quanh phổ mặt trời. Giữa dòng người nườm nượp có một cô gái da trắng bước đi như chạy trốn.
Một ông già châu Á vội đuổi theo:
- Cô Mêri! Dừng lại! Dừng lại!
Cô gái gần như ôm chầm lấy ông oà khóc:
- Thật kinh khủng! Kinh khủng! Trời ơi! Ông Pitơ...
- Bình tĩnh, hãy nghe tôi nói...
- Sao lúc nãy ông không nói.
- Tôi sợ mất lòng...
- Mất lòng! Mất lòng ai? Mất lòng chiếc rôbốt?
- Biết làm sao được, nhưng nó đang cho tôi hạnh phúc. Tôi cô đơn, tôi thiếu tình yêu...
Đêm ấy trong công viên thành phố Đảo, có hai người ngồi gốc cây sồi, dưới ánh trăng mờ ảo và nghe tiếng gió biển vi vút ngoài xa...
- Ông yêu một cỗ máy... còn cô gái xinh đẹp ngay cạnh bên ông thì ông không yêu!
- Tôi mặc cảm về tuổi tác, về vóc dáng. Tôi không dám mơ ước đến Mêri.
- Khi đã siêu phàm, đã thiên tài, đã là triệu phú rồi thì những cái đó có thể san bằng. Em không mong ước
gì hơn được là người yêu của ông! Em yêu ông, hạnh phúc được bên ông. Bây giờ đã có em rồi, em mới hỏi thật: ông thích rôbốt Vênuýt hơn nay Mêri hơn.
- Mêri muôn năm.
Cô gái cười khúc khích ôm đầu ông Pitơ vào ngực mình. Pitơ nhìn quanh vẻ cảnh giác:
- Anh sợ gì.
- Sợ Vênuýt ra đây đánh ghen. Vênuýt có khả năng dò tìm được anh do các bóng siêu dẫn bắt được làn sóng điện sinh vật từ cơ thể anh phát ra.
- Ôi lạy chúa, lại đến nông nỗi ấy. Em sẽ giết Vênuýt.
- Bằng cách nào - Pitơ nghi ngờ.
- Bằng dao đâm vào ngực.
- Vô ích. Độ bền của vật liệu phủ ngoài kháng cự được vật nhọn.
- Em sẽ bắn chết nó.
- Cũng không thực hiện được đâu. Đạn không xuyên thủng. Và lại phản ứng của Vênuýt là tự động, nó biết trước các hành vi đối phương định làm gì nó.
- Anh đã chế tạo ra một con quỷ sứ yêu tinh như trong các truyện phương Đông, chứ không phải là rôbốt nữa. Bây giờ làm thế nào? Nếu nó ghen nó giết em thì sao.
- Tự nó, nó giết em thật, nhưng anh sẽ ra lệnh, và nó thì phục tùng anh tuyệt đối.
- Trời ơi, em phấp phỏng, không an toàn, lo lắng cho tình yêu không trọn vẹn này.
Pitơ giấu kín chuyện vị trí OFF của công tắc trong chiếc răng nanh bên phải. Không hở cho Mêri biết (đó là sự phòng thân, cầm đằng chuôi, thuộc bản năng sống của mỗi con người). Vênuýt được cất vào kho đặc biệt, cùng lúc với bức điện, của Pitơ đánh đi Mỹ châu xin ly dị vợ.
- Mêri muôn năm! - Trong cái vila mê hồn nấp giữa các lùm đại thụ thỉnh thoảng lại vang lên tiếng hô khẩu hiệu của Pitơ. Pitơ thật sự được hưởng hạnh phúc không ngờ, hàng ngày hai người dậy sau 9 giờ, uống cà phê ăn bánh ngọt do người của khách sạn Hoàng Gia đưa đến. Sau đó đi dạo khuây khoả, loanh quanh, hoặc đọc vài trang sách gọi là có “làm việc”. Trưa ăn ở khách sạn Hoa Hồng Vàng. Chiều chơi thể thao hoặc bơi ngoài bãi biển. Tối giải trí bằng phim ảnh ca nhạc.
Suốt ngày đêm hai người quấn quýt bên nhau. Bữa ăn đêm vào lúc 10 giờ, những món đặc biệt cao cấp cũng do người của khách sạn Hoàng Gia đưa đến. Các cuộc ái ân truy hoan đều đặn tuần hai lần vào tối thứ ba và thứ bẩy.
Pitơ sao nhãng đặt chân tới phòng thí nghiệm, ít tiếp xúc với các phụ tá chuyên gia về rôbốt. Ông đã làm việc cả đời và bây giờ chán, muốn nghỉ ngơi. Cuộc đời không còn nhiều thời gian lắm nữa. Có thêm một vài công trình cũng chẳng thành tiên thành thánh như “cá hoá rồng” được.
Phải sống gấp tận hưởng hạnh phúc cuộc đời, khi cái đích chung cục chẳng còn bao xa.
Từ ngày có Mêri, bao nhiêu lý thuyết về đời đáng chán, đời vô nghĩa, con người không hoàn thiện... không còn được Pitơ bận tâm nữa. Pitơ như đứa học trò vô tâm, đã học qua các lý thuyết kia, đã nắm vững, đã làm bài được điểm khá, mà bỗng nhiên giờ chữ thầy giả thầy, quên sạch chẳng nhớ gì... .
Kỷ niệm năm thứ 5 chung sống, Pitơ thuê hãng phim làm một bộ phim về cuộc đời mình, từ nhỏ, đến lúc thành tài và gặp Mêri.
Phim hoàn thành trong một năm, tốn nhiều tiền và khá thành công. Bốn diễn viên thay nhau đóng vai Pitơ qua các giai đoạn từ tuổi thơ đến thanh niên, trung niên, về già. Còn Mêri, thì nàng tự đóng lấy vai kịch của mình, từ buổi tối vô tình gặp Pitơ ngoài phố, đến khi thành vợ - người sưởi ấm trái tìm cô đơn của bậc thiên tài. (Bà vợ cũ của Pitơ và rôbốt Vênuýt không có trong đường dây câu chuyện. Bộ phim được hư cấu theo cách của nghệ thuật).
Hạnh phúc Pitơ - Mêri đã lên đến đỉnh điểm! Nhưng theo quy luật thông thường thì... qua đỉnh là xuống dốc!...
Sau năm năm, ông Pitơ già đi nhanh hơn, còn Mêri thì mới bắt đầu vào độ sung mãn... Trong Féttivan điện ảnh quốc tế tổ chức ở thành phố Đảo năm ấy, có ngôi sao màn bạc số 1 Đali đến dự. Đali đẹp giai, tài năng, chiếm giải vàng, lập tức thành thần tượng của các cô gái. Mêri gặp và làm quen với Đali trong một buổi chàng ra mắt công chúng thành phố đảo.
Cái phải đến, nó sẽ đến.
Mêri trốn Pitơ cặp kè với chàng tài tử mà sự hấp dẫn đã đến mức không cưỡng nổi. Thám tử của Pitơ quay phim chụp ảnh các cảnh đó. Đặc biệt là cảnh ân ái truy hoan trong khách sạn do camera bí mật thu được.
Cái phải đến, nó sẽ lại đến.
Nhà chế tạo rôbốt bất đắc dĩ phải biến thành nhà đạo diễn điện ảnh, nhà dựng phim. Ông cắt bỏ toàn bộ các hình ảnh của Mêri trong cuốn phim truyện đời mình. Chỉ còn lại chuyện Pitơ từ niên thiếu, bồi bàn khách sạn đến học thành tài. Toàn công việc là công việc. Phim khô khốc, phí toi cả công của hãng phim từng đầu tư bao chất xám cho nghệ thuật để tạo dựng nên hình tượng Mêri biểu tượng cho tình yêu - nguồn sống của cõi đời này!
Chiếc công tắc điều khiển từ xa ở răng nanh bên phải Vênuýt rời vị trí OFF. Và Vênuýt chớp chớp mắt như Hằng Nga bừng tỉnh dậy sau giấc ngủ 5 năm trong rừng. Rồi một buổi chiều, khi bà chủ Mêri sau một ngày đi chơi biển với Đali trở lại nhà thì bất ngờ bị Vênuýt chặn ngoài cửa.
- Xin bà đi khỏi đây cho!
- Trời ơi, tôi còn tin ở mắt tôi, tai tôi nữa hay không?
- Thính giác của bà vẫn còn tốt lắm. Mà tôi không muốn nhắc lại câu đó lần thứ hai. Mới có 5 năm mà trông bà thay đổi khác nhiều nhỉ. Bao tơ nhện đã giăng trên gương mặt! Hừ, giờ thì bà chả còn được giống tôi như đúc, chả phải vạch nhọ nồi lên trán làm gì...
- Anh Pitơ! Anh ở đâu - Mêri gào lên.
- Ôi người đàn bà kêu cứu! Vô ích, oan khiên nỗi gì. 5 năm từ địa vị con ở bà ngoi lên địa vị bà chủ. Thắng lợi quá còn gì, vinh quanh quá còn gì. Đã được hưởng bao vị ngọt mê say của cuộc đời. Bây giờ chịu khó nếm chút xíu vị đắng. “Mèo lại hoàn mèo”. Bà chắc có nghe câu thành ngữ này. Nếu chưa, thì bây giờ tôi đánh vần cùng bà mèo... lại hoàn m...e...ò.
- Đồ vật liệu, đồ rây dợ, bóng đèn.
- Đồ người! Đồ xương thịt!
- Đồ không có trái tim!
- Đồ có trái tim!
- Trời ơi, anh Pitơ, anh ở đâu?
Trên cửa sổ lầu hai, Pitơ thò đầu qua rèm cửa:
- Tôi ở đây.
- Anh có nghe thấy gì không?
- Có thấy tất cả..
Cánh cửa sổ đóng sập lại:
Vênuýt cười giòn tan:
- Thấy chưa! Bà đã đến đây không có gì ngoài bộ quần áo trên thân, với tư thế kẻ thất nghiệp đến xin việc, thì cũng hãy ra đi cũng với bộ quần áo trên thân. Đến thế nào thì đi như thế!
Cánh cửa nơi Vênuýt đứng cũng đóng nốt.
*
*    *
Ngài chánh án thành phố Đảo vân vê bộ râu đáng kính tượng trưng cho quyền uy của công lý, đi đi lại lại.
Trọn đời làm một quan toà công minh, góp phần giữ gìn trật tự xã hội ở cái đảo này, ông đã nổi danh. Nhưng sự nghiệp của ông có thể sứt mẻ vì vụ án quái lạ này!
Ông bó tay. Kiểu tội trạng này không có ghi trong bộ luật quốc gia, không biết xử thế nào... Bà Mêri kiện ông Pitơ đã chế tạo ra một “con quỷ yêu tinh” bằng chất siêu dẫn. Và dùng nó để thay thế con người, thay thế tình yêu, tình dục - cái mà nhờ đó loài người duy trì phát triển được nòi giống. Không có nó, loài người sẽ bay biến khỏi mặt đất trong tương lai tính bằng đơn vị vài thập kỷ! Tội làm loài người diệt vong thì to lớn quá còn gì! Còn tội nào to hơn thế nữa? Không xử sao!
Nhưng xử thế nào? Xử “tội” làm nên thành tựu kỳ diệu của khoa học à?...
Trong khi ông chánh án đang lúng túng thì báo chí đã tung lên trang nhất bản cáo trạng của bà Mêri. Người ta đặc biệt lưu ý chi tiết miêu tả tỷ mỉ khả năng đáp ứng tình dục của rôbốt VêNuýt; cùng với chất liệu da thịt nõn nà mềm mại giống hệt da thịt người của nó...
Mêri đòi kết án tử hình Pitơ vì tội “có âm mưu tiêu diệt giống người”.
Ngài chánh án đau đầu, không lối thoát, bắt đầu nghĩ đến chuyện viết đơn xin về hưu.
Nhưng dù ngài có về hưu, người khác lên thay, thì cũng không ai xử cái vụ án quái lạ ấy. Còn cả thành phố Đảo thì cứ xôn xao, sôi sục lên, ở đâu cũng nhắc đến tên Pitơ Trần.
Ông già không ngờ cuối đời lại lừng danh đến thế.
Một hôm Pitơ đang ngồi hóng mát bên hiên khách sạn bờ biển thì có người đại diện của công ty chế tạo rôbốt đến mua phát minh rôbốt Vênuýt về sản xuất hàng loạt. Đồng thời ông đặt hàng Pitơ nghiên cứu chế tạo một rôbốt giống đực, với tên là Đavít. Việc mua bán diễn ra sòng phẳng. Theo hợp đồng, ông Pitơ chỉ bán bản quyền sáng chế, không chịu trách nhiệm gì về sự lưu hành của mặt hàng rôbốt Vênuýt và Đavít trên thị trường, giống như người sáng chế bom nguyên tử không chịu trách nhiệm về việc quả bom đó ném xuống đầu con người...
*
*    *
Các nhà thám hiểm biển kể lại rằng, trên đường đi vòng quanh quả đất, họ có dừng lại ở một đảo lớn. Đảo toàn sỏi đá trơ trụi, thấp thoáng các bụi gai cằn cỗi, và giống bò sát vẩy sừng dày.
Ông thuyền trưởng sau giấc ngủ mê mệt, tỉnh dậy đã kể lại giấc mơ của mình, rõ ràng rành mạch, câu chuyện rôbốt Vênuýt như chính ông đã trải qua.
Có lẽ nào hoang đảo này thuở xa xưa lại là một thành phố vĩ đại và đã đạt đến trình độ khoa học như trong truyện thần thoại.
Đoạn cuối của giấc mơ thế này:
Các rôbốt Vênuýt và Đavít được công ty nọ sản xuất hàng loạt, và bán rộng rãi trên thị trường. Người ta đổ xô vào mua. Đàn ông mua Vênuýt, đàn bà mua Đavít, ai cũng có phần.
Con người đã chán nhau, đời đáng chán, đời phi lý, thượng đế sáng tạo con người không bền vững, không hoàn chỉnh. Có một rôbốt đẹp tuyệt vời, da thịt như da thịt người, tình dục được thoả mãn mà không rắc rối phiền phức, còn gì tiện lợi hơn. Những cặp vợ chồng người với rôbốt như thế tất nhiên là không phải trải qua những diễn biến bi kịch tất yếu của tình yêu, không bị tàn phai  sắc đẹp và hư hao của cải vì sinh nở nuôi nấng con cái.
Thành phố dần bỏ hoang các nhà hộ sinh. Và một trăm năm sau thì người già lão cuối cùng của thành phố nhắm mắt, từ giã cõi đời. Đảo còn toàn các công dân rôbốt. Nhưng các rôbốt không yêu nhau, lấy nhau và không sinh con đẻ cái. Các dây dợ bóng đèn siêu dẫn ấy về sau đi đâu không rõ, có thể xuống đáy biển hay lên trời đến một hành tinh khác...
Ngài thuyền trưởng bị đánh thức dậy ở chỗ đó.
Với thời gian, mưa gió, bão tố động đất, hồng thủy... triệu năm trôi qua, thành phố vô chủ, không người, chỉ còn lại cát sỏi, bụi gai, và thằn lằn vẩy cứng.
Hoá ra sự sống tái sinh trên hoang đảo này, bây giờ mới bắt đầu thời kỳ bò sát vẩy sừng! Nói theo học thuyết tiến hoá của Đác Uyn thì còn phải trải qua các thời kỳ chim, thú có vú, thời kỳ vượn rồi mới đến thời kỳ người - Một người thợ máy sau khi nghe kể chuyện thốt lên!
- Có thể! Cũng giống như sau chiến tranh hạt nhân con người muốn tái sinh trên hành tinh này phải bắt đầu từ các đơn bào rồi qua hàng tỷ tỷ năm mới tiến hoá thành người được. Đơn bào, cá, bò sát, chim, thú có vú, vượn người... Đấy, như thế.
- Tôi ngờ rằng cách đây hàng tỷ năm trên hành tinh này đã có một nền văn minh đạt đến mức như của thế giới thần thoại. Rồi “hết khôn dồn dại” chiến tranh hạt nhân đã nổ ra, quét sạch thành tro bụi tất cả, khiến cho sự sống tái sinh phải bắt đầu từ đơn bào... Đơn bào - cá - bò sát - chim - thú có vú - vượn - người.
Như thế, cứ như thế, vòng tuần hoàn!
- Các người nói chuyện chính trị từ bao giờ thế - Một người thuỷ thủ lắc đầu - Chuyện chính trị thật là chán ngắt thưa thuyền trưởng... Thế nào, cuộc thám hiểm của chúng ta có kéo dài lâu quá không? Mêri của tôi (ồ, trùng tên với nhân vật trong giấc mơ của ngài) đang nóng lòng đợi tôi trở về...
1982


Lâu đài hoa Thuỷ Tiên
K
iến trúc sư Đan Thanh đến thành phố N. vào cuối thu. Một mình dạo bờ biển. Sóng và mây cuối chân trời mù mịt màu khói hương. Mấy năm nay, anh hay nhìn thấy màu sương khói ấy của ký ức.
Đan Thanh thở dài. Nhặt cành củi khô, vô thức anh vẽ trên cát một hình năm góc trong có ngôi sao. Làn sóng đăng ten trắng trào lên xoá hình vẽ liền tay.
Sáu năm trước Đan Thanh cũng vẽ một cái hình như thế. Thuỷ Tiên nằm phơi nắng trên cát, chân tay giang rộng trông như bông hoa khổng lồ cánh dài trắng muốt. Biển mon men đến chân nàng rồi lại rút ra xa. Nàng lim dim mắt, mỉm cười lơ đãng.
Thanh ngắm Thuỷ Tiên. Vóc người nàng cân đôi tuyệt hảo. Chiều cao, chiều dài của tay và chân. Tỷ lệ từ thắt lưng đến đầu và thắt lưng xuống chân. Độ thon và các đường cong.
Hình thể vạn vật trên đời sở dĩ trông cân đối hài hoà chính là vì nó được cấu tạo theo một tỷ lệ tạo hình chung mà tạo hoá ấn định. Điều kỳ diệu này người Hy Lạp cổ đại say mê môn hình học đã tìm ra.
Thanh vẽ một hình năm góc lớn, trong có ngôi sao năm cánh đều, rồi bảo Thuỷ Tiên nằm giang tay giang chân vào đó. Đỉnh đầu, hai bàn tay, hai bàn chân vừa chấm đỉnh năm cánh ngôi sao. Đó chính là một thử nghiệm xác định sự cân đối hình thể của các hoa hậu.
Thuỷ Tiên cười khanh khách:
- Người em có gì giống hình thù những ngôi nhà của anh vẽ mẫu không?
- Các lâu đài cung điện trên mặt đất sở dĩ đẹp mê hồn là vì nó có một cái gì đó chung, giống với hình thể em.
- Xạo...
- Người Hy Lạp cổ điển đã đem những cô gái đẹp ra đo. Đem chiều cao chia cho chiều dài từ rốn xuống chân họ được một con số: 1,618. Lấy chiều dài từ rốn xuống chân chia cho chiều dài từ rốn lên đầu cũng được con số: 1,618. Rồi kích thước nhiều bộ phận trong cơ thể con người đem so sánh với nhau cũng đều là tỷ lệ ,1,618 cả. Đó là một phát hiện kinh ngạc. Sự bí hiểm diệu kỳ của tạo hoá. Đem đo bất cứ cái gì có vẻ đẹp cân đôi trong thiên nhiên thấy chúng đều cấu tạo theo cái tỉ lệ vàng 1,618 cả. Người Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên đền Pác-tê-nông nổi tiếng với nguyên tắc các bộ phận cấu tạo theo tương quan tỷ lệ 1,618. Và đã trở thành mẫu mực kiến trúc cho mọi thời đại. Anh cũng sẽ xây dựng một toà lâu đài tuân theo tỉ lệ vàng của thân thể em, Thuỷ Tiên ạ.
Thuỷ Tiên ngồi dậy dúi đầu Thanh xuống sóng biển sặc sụa:
- Cho hết ba hoa!
Hai người ngồi nhai từng miếng bích qui nhỏ và tu chung chai nước khoáng.
Đan Thanh được người ta thuê vẽ mẫu một dinh thự vĩ đại với yêu cầu trở thành biểu tượng của thành phố.
Hạnh phúc đến với người kiến trúc sư trẻ tài hoa. Nguồn cảm hứng sáng tác diệu kỳ đã làm anh như sống trong thế giới thần tiên. Anh gầy xác đi và lâng lâng như kẻ mộng du. Đêm đêm anh ngồi vẽ miệt mài và chiều chiều lại cùng Thuỷ Tiên ra biển. Nàng vẫn nằm đó trên cát trên sóng như bông hoa cánh dài trắng muốt khổng lồ. Còn anh ngồi nhấp từng hớp bia nhỏ ngắm nàng mỗi ngày lại phát hiện ra một điều mới mẻ. Cái “tỷ lệ vàng” không còn là chuyện ba hoa, mà đã trở thành hiện thực công việc.
Anh sẽ xây toà dinh thự kỳ vĩ kia trên nguồn cảm hứng có được từ vẻ đẹp thân thể nàng.
Anh sẽ noi gương những người Hy Lạp cổ đại khi xây dựng đền Pác-tê-nông. Anh sẽ sử dụng “tỷ lệ vàng” cổ điển.
Vẻ đẹp của đồi tuyết phủ và đôi vú kia có gì giống nhau? Sẽ trồng một rặng liễu gợi hình ảnh mái tóc thiếu nữ. Một dòng suối nhân tạo giữa hai bờ đá trắng uốn lượn giống nét lượn của eo lưng nàng.
Thanh đặt tên cho toà dinh thự là Thuỷ Tiên. Ký hiệu riêng của anh thôi. Thành phố sẽ đặt tên cho nó bằng một khái niệm chính trị: dinh Hoà Bình, dinh Tự Do, dinh Cộng Hoà chẳng hạn. Kệ họ. Với anh, hoà bình, tự do, dân chủ, cộng hoà đồng nghĩa với Thuỷ Tiên cả.
Người ta hoài thai chín tháng mười ngày sẽ được một con người. Anh cũng hoài thai chín tháng mười ngày xong bản thiết kế. Nhưng vào ngày trao bản thiết kế cho người ta thi công cũng là ngày anh gặp chuyện đau buồn nhất đời: Thuỷ Tiên đã bỏ anh để đi yêu một người khác đẹp trai và giầu có áp đảo anh.
Thanh đau khổ đến mức rời thành phố N. ngay lập tức, không trở lại, trừ buổi dự khánh thành toà lâu đài. Nó được đặt tên đúng như ước đoán của anh: “Dinh Hoà Bình”. Toà nhà được khen là đẹp nhất thành phố. Rặng liễu, dòng suối, bờ đá trắng, “tỷ lệ vàng” cổ điển...
Sáu năm đã trôi qua, nghề nghiệp dẫn Thanh đi khắp nơi trong nước để vẽ thuê những toà nhà vụn vặt lắt nhắt giống như vài cuộc tình vụn vặt lắt nhắt mà anh trải qua.
Không thể nào còn có được một tình yêu như mối tình đầu Thuỷ Tiên.
Anh không còn gặp được một cô gái nào có cơ thể đúng khít với tỷ lệ vàng của tạo hoá 1,618 như Thuỷ Tiên. Người đẹp trên đời ít quá. Nhưng cái đẹp tuyệt đỉnh ấy đã vĩnh viễn chìm vào sương khói mịt mù của ký ức mất rồi.
Thanh lang thang, bơ phờ để cho thời gian trôi trên vai như nước chảy bèo trôi...
... “Xin mời kiến trúc sư tới Dinh Hoà Bình dự lễ tiếp tân...”.
Đan Thanh thắt cà vạt, sửa nếp lễ phục soi gương lần cuối.
Thành phố đã lên đèn. Anh bước chầm chậm dọc đại lộ. Dửng dưng. Những người qua đường không quen biết. Anh muốn coi thành phố này là hoàn toàn xa lạ. Nhưng những góc cây, góc phố có kỷ niệm xưa đã chống lại anh làm anh thỉnh thoảng phải bóp chặt lấy ngực như cơn đau tim.
Những pha đèn sáng rực soi tỏ những đường nét hình đồi tuyết phủ (hay hình đôi vú trinh nữ Thuỷ Tiên năm nào) của dinh Hoà Bình hiện ra trước mặt.
Đan Thanh lững thững bước vào tiền sảnh. Những bóng đèn màu nhỏ xíu mắc trên rặng liễu như mưa sao. Từ trong các xe hơi sang trọng, các quan khách bước ra tấp nập. Thanh bắt tay vài người quen.
Trong đại sảnh đã thấy đông đúc ồn ào. Thanh đi dọc hành lang huyền ảo lộng lẫy. Anh muốn ngắm lại vẻ đẹp của Thuỷ Tiên, của mối tình đầu.
Người Thanh xâm xấp như sốt. Anh rẽ ngoặt một thang gác khuất nẻo không bật đèn. Ánh sáng dưới vườn hắt lên mờ mờ. Một người đàn bà đang ngồi dùng xà phòng kỳ cọ những viên đá trắng bọc ngoài ban công hình cánh hoa Thuỷ Tiên.
- Lúc nào cũng phải đánh sạch thế - Thanh nói bâng quơ - Cánh hoa Thuỷ Tiên bao giờ cũng trắng nõn.
Người đàn bà lao công đánh rơi chiếc giẻ. Như điện giật, ngẩng lên. Tiếp đến, hộp xà phòng tung toé. Người đàn bà lao xuống cầu thang...
Thanh sững người. Anh vừa thấy một dáng vẻ loé lên như chớp sáng trong óc.
- Thuỷ Tiên! - Anh thốt gọi.
Anh sáng mờ mờ và các âm thanh mịt mù làm Thanh mất nhanh nhạy. Anh chỉ thấy một bóng người lẩn vội vào vườn cây chạy trốn trong bóng đêm.
- Thưa ông, đừng gọi con bé ấy làm gì - Một người thợ điện tay cầm kìm từ phòng xép bước ra, đứng trước mặt Thanh - Nó không còn phấn hương nữa đâu. Thoáng nhìn thì có vẻ đẹp đấy, nhưng lai lịch đâu có ra gì. Tôi có thể giới thiệu cho ông một cô gái tinh khôi, thơm ngát như hoa Thuỷ Tiên, để ông làm bạn, bạn thôi, nếu ông muốn thế. Còn con bé kia đã có chồng, bị chồng bỏ, xin vào đây làm lao công. Nó cùng tổ công đoàn với tôi, tôi biết. Hiện đang yêu đương lăng nhăng năm bảy mối, mà chẳng chắc chắn mối nào...
Đan Thanh thấy cái ban công hình hoa Thuỷ Tiên mình đang đứng như có vẻ chông chênh, dễ ngã. Anh thật sự sợ, dịch lui vào.
Anh nhìn mặt người thợ điện, chán nản lắc đầu.
Tiếng chuông trong đại sảnh đã reo báo giờ khai mạc. Thanh vội vã bước tới.
Đại Yên 19-9-1993


Cánh diều
T
hư đi bộ từ bến xe về đầu không mũ, trên tay không một túi xách nhỏ. Anh bắt đầu đợt nghỉ ba tháng ở quê. Ngôi nhà cổ vắng lặng. Mảnh vườn rộng mênh mông đầy lá khô xột xoạt tiếng chân cáo chạy. Thư theo lối gạch lát giữa hai mặt ao nước lặng như đá cẩm thạch. Tháng bảy gió chạm heo may, lá xoan bay lơ lửng.
Thư mở cánh cửa bức bàn nặng nề, bước vào. Căn nhà sâu hun hút, tối om, sực mùi ẩm mốc. Anh nằm xuống võng đu đưa. Như một người mộng du, Thư đang thấy mình ở trong một trạng thái rất lạ. Cái giai điệu mà anh vẫn tìm cách đuổi bắt bấy lâu nay, đang như mơ hồ hiện hình mà không sao nắm được trong lòng bàn tay. Nó như một con bướm chập chờn ẩn hiện, một tia nắng chạy vụt qua rồi lẩn mất vào không gian.
Những chiếc lá vàng vẫn bay lơ lửng và chạm vào những sợi nắng hanh vàng rợi ngoài sân. Thư lững thững, mở cửa sổ. Chồng giáo án của Chi đặt xiêu vẹo trên bàn đầy vỏ hạt dưa. Tấm áo mỏng như giấy tàu bạch vắt trên ghế. Thư nhìn sợi nắng chăng qua cửa sổ và những chiếc lá vàng đang cố bay rơi vào mặt bàn. Chiếc lá chạm vào sợi nắng nhất định phải bật lên âm thanh, nhưng sao mình không nghe thấy. Cái giai điệu ẩn sâu tít trong nền mây xanh đến nao lòng kia ư? Nếu mình nắm bắt được những sợi nắng và cuộn nó trong năm đầu ngón tay, những sợi nắng ấy sẽ dẫn truyền vào trong da thịt cho mình nhận biết cái giai điệu. Thư bất lực. Người trống rỗng. Anh tiếp tục cơn mộng du trong ngôi nhà vắng của mình...
Cửa sổ đã mở, nhà có bụi, anh đi quét. Thư không thể làm gì hơn. Chiếc đàn trong góc nhà. Hai tay, Thư mở nắp. Những phím đen trắng nằm lạnh cứng.
Chiếc đàn không kêu hay nói đúng hơn là nó kêu những tiếng trống rỗng, uể oải, vô nghĩa.
Chi ở trường về, trong túi xách có một con cá tươi ròng. Con cá quẫy đuôi đành đạch. Anh! - Chi reo lên.
- Rẻ quá anh ơi, họ vừa bắt ở đầm lên.
- Ba chục đồng con này - Thư đoán giá rất trúng. Chi phục sát đất.
- Anh làm gì trông như thằng đần ấy - Chi hỏi - Lúc còi xe thổi, ở trong lớp em nhìn ra thấy anh đi thất tha thất thểu.
- Anh về nghỉ kỳ này dài đấy.
- Tuyệt quá! - Đôi mắt xanh biếc của cô mở to sáng rực.
- Anh Thư này, lợn bán rồi, được 50kg anh ạ. Kỳ này có tiền mình làm cái cổng sắt nho nhỏ. Nhà rộng, em với thằng Khuê sợ ma bỏ mẹ ra ấy.
- Làm gì có ma.
- Có thật đấy.
- Nhảm.
- Đúng ra thì không có... Nhưng vẫn cứ sợ.
Chi sung sướng chạm vào cánh tay chồng náo nức:
- May quá... Bao nhiêu việc đang đợi anh. Phải dọn vườn, chặt bớt cây dại, rồi chữa lại bếp bị dột...
- Người ta nghỉ để tập trung hoàn thành tác phẩm, đâu có phải nghỉ để làm những chuyện vớ vẩn ấy được.
- Sáng tác cả năm cả đời, về nhà là phải làm. Không làm thì chơi, cứ chơi thôi cũng được. Chứ lại cứ cặm cụi suốt ngày trên cái đàn em ghét lắm... À này, kỳ này anh phải dạy thằng Khuê tập đàn đi, không cứ để suốt ngày chạy rông ngoài đồng chết nắng... Phải đề ra cho nó một cái thời gian biểu...
- Em đề cho nó thời gian biểu...
- Nó nghe em khối đấy. Kìa, anh nhìn xem - Chi chỉ tay về phía gầm giường nơi ba bốn cái diều sáo, diều mòng lăn lóc - Nó gò lấy hết đấy anh ạ. Tài đáo để...
*
*   *
Ăn cơm trưa xong, Chi ra vườn. Chi có những công việc triền miên ngoài đấy. Thư lại ngồi vào đàn. Anh vội vã và có lúc tưởng như cái giai điệu mà anh ao ước kia đã vụt ập đến, anh phải chộp vội lấy nó. Tờ giấy chép nhạc trắng nõn mỏng tang để trên mặt bàn. Anh vội vàng ghi lấy ghi để khúc dạo đầu.
Cơn gió dìu dịu thổi qua cửa sổ. Nhưng cơn gió cảm hứng vừa chợt đến đã vội bay đi. Cái giai điệu phập phồng kia tưởng hiện hình về bỗng lại mất hút vào không gian. Và anh ngu ngơ nhìn theo nó. Nó đã tan vào nắng và gió, mây trời và lá vàng. Có thể Chi nhìn thấy nó chăng. Còn anh thì không. Anh thành mù tịt, điếc đặc, u mê. Những ngón tay anh chết cứng trên hàng phím lạnh lẽo, không hồn.
- Bố ơi, cho con 5 đồng.
- Cái gì?
- Cho con 5 đồng.
- Trẻ con không nên có tiền.
- Tại sao lại không nên nhỉ?
- Con cứ tạm hiểu như thế!
- Hiểu thì không khó, nhưng không có tiền con làm sao mua được giấy bản để dán diều. Con cần một cái diều mới thật to. Khung đã gò xong - Khuê cãi.
- Trẻ con không được phép tiêu tiền! Có thế thôi!
Thằng Khuê nhíu trán cố suy nghĩ về cái triết lý vô lý của bố. Nó có lý hơn, vậy mà đành chịu thua.
Thư ra võng nằm. Không... Không thể có được cái giai điệu mà anh vẫn săn đuổi. Không có một cơ sở nào để anh sáng tạo ra nó lúc này. Lòng anh đang ngổn ngang hỗn độn...
... Hai người đi với nhau trên đồi bạch đàn dưới ánh trăng. Đồi, trăng và bạch đàn... toàn những thứ muôn thuở nhưng với họ đây là lần đầu tiên trên đời này có các thứ đó.
- Khi chưa có em, anh đã tiêu phí mất bao nhiêu mùa trăng...
Anh nằm giày vò đôi chân trên ngọn cỏ dập gẫy. Còn cô thì ngồi trên một phiến đá nhỏ sạch tinh, ôm đầu anh vào lòng dáng một người mẹ.
- Lát nữa, trường anh đóng cổng anh vào bằng cách nào?
- Anh vượt rào! Còn em, ông thường trực lẩm cẩm của trường em cũng hay đóng cổng sớm lắm đấy.
- Em chui rào.
Những bông hoa dại của đồi sỏi, khi sương xuống bắt đầu toả hương. Anh thấy cô đẹp tuyệt vời. Trên đời này không có ai đẹp hơn cô. Anh thấy cô đáng nâng niu đến mức mỗi bước chân cô đi đều phải rải lụa cho êm. Những sợi vải của tấm áo cô mặc cũng toả một mùi hương kỳ diệu. Anh tưởng tượng cơ thể cô làm bằng ngà, bằng tuyết, tinh khiết diệu kỳ không thể nói hết được.
- Anh hát cho em nghe đi - Cô nũng nịu. Ngón tay chạm vào môi anh - Trên đôi môi này ẩn bao bài hát.
Anh ngồi bật dậy. Đứa con đã uống no dòng sữa vô hình để đủ sống suốt đời. Anh hát từng câu ứng tác. Và nó cứ cuồn cuộn chảy bất ngờ như một dòng suối đã được khơi nguồn. Anh có một giọng téno lý tưởng. Nhưng tất nhiên là anh coi nó chẳng ra gì khi đem so với giọng nói trong vắt của cô.
- Thôi về đi anh - cô bảo - Những câu ứng tác vừa rồi có thể phát triển thành một ca khúc hay đấy anh ạ.        
Anh về ghi lại ngay đêm ấy, sắp xếp lại tí chút chẳng khó khăn gì mà anh làm thành một bài hát với tên “Ngày đầu”. Ngày đầu là cái gì? Trong bài hát có ánh trăng đồi cỏ và một người con gái như bông tuyết đầu mùa.
Ngày ấy anh là sinh viên năm cuối cùng của khoa sáng tác Nhạc viện. Còn cô thì là sinh viên khoa Toán Lý trường Sư phạm.
Người biểu diễn lần đầu bài “Ngày đầu” trên sân khấu, tất nhiên không phải là cô. Giọng nói của cô trong trẻo kỳ diệu, giọng nói đó chứa đựng toàn bộ ý nghĩa của khái niệm tình yêu, nhưng chính cô lại không ngân vang nó lên được. Người ngân vang lên được là Ý Lan - cô gái của khoa Thanh nhạc cùng trường.
Ý Lan đến với anh rất nhanh, rất tự nhiên, không cần có một thời gian “dự bị” nào. Lan ào ào, sôi sục, nồng cháy. Chi là một người mẹ để cho anh còn “đói khát”, còn Lan thì tắm anh trong dòng sữa của mình. Vậy mà còn đòi hỏi gì nữa. Anh muốn là nhân vật trong ca khúc “Ngày đầu” ư - Lan mỉm cười, mắt xanh biếc ánh lên những tia sáng, sóng sánh - Nếu vậy thì chia tay nhau! Anh muốn là nhân vật trong bài hát của mình. Thực là thật thà đến tội nghiệp... Tạm biệt!
Ý Lan tiếp tục vào đời vẫn với bài hát “Ngày đầu”. Không ai biểu diễn thành công bằng Lan. Theo nấc thang của sự thành công ấy, Ý Lan bay cao, đi xa tới những chân trời khác.
- Trời, không ngờ bài hát ấy lại hay đến thế - Chi xuýt xoa sau ngày cưới - Càng nghe càng thấy hay... Anh nổi tiếng quá... Sao anh không viết hàng loạt bài như thế nữa.
- Làm bằng chuyện gà cục tác hàng ngày.
- Nhưng nhuận bút thấp quá. Một bài hát lừng tiếng mà không đủ may cho vợ bộ quần áo.
- Tình yêu của em với anh chính là nhuận bút cơ bản rồi!...
- Bố ơi! Cho con 5 đồng.
- Bố đã nói là trẻ em không được tiêu tiền mà. Tiền là một cái gì xấu xa.
- Xấu xa mà ai cũng cần nó.
- Đi chơi không tao phết vào đít bây giờ!
Thằng Khuê đã 9 tuổi. Chín năm, anh vươn tới những thành công gì. Người ta nhắc đến tên anh vẫn chỉ là nhắc đến “Ngày đầu”. Chẳng lẽ tài năng chỉ là một vệt sao băng tắt nhanh.
Chín năm, anh biết hút thuốc, uống rượu, biết chê bai, chửi đổng. Tất nhiên là anh đã có một vị trí nào đó trong giới. Là một nhạc sĩ có tác phẩm đều đều. Tên anh khá quen tai với thính giả. Anh lại có một giọng téno khá tốt. Lên sân khấu, anh tự trình bày bài hát của mình hết sức thành công... Về cơ sở nông trường, nhà máy, hợp tác xã, vừa hát vừa đàn, trong con mắt của mọi người đích thực anh là một thiên tài.
Nhưng anh thì đau khổ dăn vặt không nguôi. Vốn sống - kỹ thuật - thẩm mĩ tất cả anh đều hơn hồi là chàng sinh viên vụng dại, ngu ngơ, coi người yêu là thánh, là tiên. Vậy tại sao vẫn không vượt được “Ngày đầu”. Hay tại ông trưởng phòng biên tập cổ lỗ, mấy ca khúc anh thích nhất đưa ra đều bị ông “bẻ hành bẻ tỏi”, “bóp chết từ trong trứng” cho là thế này thế nọ. Cho nên anh phải suôn xẻ một chiều. Dù sao anh cũng phải luôn nhắc nhở mọi người là anh tồn tại. Còn viết mà vứt xó thì viết làm gì.
Anh còn có một đối thủ trong cơ quan. Thằng đó thù anh? Ghen tài anh? Hoặc quá dốt không hiểu được nhạc của anh! Nó kình nhau với anh: dèm pha, đồn thổi, đấu đá anh. Có phải chính vì nó mà tài năng của anh không bay bổng lên theo đà của “Ngày đầu”?
Anh trình diện giới âm nhạc một tác phẩm lừng lẫy. Tất cả coi anh là một tài năng trẻ. Bao nhiêu lời đồn đại. Bao nhiêu lời cổ vũ. Bao nhiêu hi vọng. Nhưng rồi anh chỉ tồn tại một cách làng nhàng. Không. Anh phải viết một cái gì làm xôn xao dư luận. Làm cho ông trưởng phòng biên tập phải hối hận, và cái thằng súc sinh kia bị đuổi ra khỏi cơ quan...
Thư vùng đứng dậy lại bàn, sôi sục. Ngón tay anh như chim cái mùa động đực điên rồ nhảy nhót. Và anh nhắm mắt đợi chờ của bắt được. Những tiếng đàn giật mình rộn rã vang lên. Anh cảm thấy một sức sống mới trong những âm thanh đó. Nó đã đến chăng! Có thể nó đã đến thật! Biết đâu! Thư lắng nghe, lắng nghe... Nhưng rồi anh giật mình. Quả là anh đang u mê. Anh đã nhầm. Cái nét nhạc vừa rồi chẳng qua là tiếng nhại vụng về của Rốc, Pốp...
Thư giật mình tỉnh lại, đóng sập đàn cười gằn, tuyệt vọng hoàn toàn.
- Anh mang hộ em cái cuốc ra đây mí - Chi gọi.
Tiếng Chi vót lên lanh lảnh.
- Cái cuốc...
Thư kiên quyết giằng mình khỏi cái sợi dây trói buộc vô hình của chiếc đàn, vùng chạy ra sân. Cái cuốc, anh đang làm một việc rất cụ thể là tìm một cái cuốc.
- Ra đây! Ra đây! - Chi gọi như dỗ trẻ con ngu ngơ không biết lối.
- Anh cuốc hộ em cái hố để trồng chuối.
- Cuốc sao được, cầm cuốc có hại cho những ngón tay luyện đàn.
- Nhưng nếu được ăn những trái chuối chín trứng cuốc thì ngón tay luyện đàn sẽ hào hứng hơn.
- Em thì chỉ thực dụng vớ vẩn.
- Đã dùng “khái niệm thực dụng” thì phải loại trừ “khái niệm vớ vẩn” - Chi cười vang - Nói đùa đấy, anh cứ đứng đây chơi với em cho vui để em làm là được rồi. Anh đi nhặt lá vàng vun lại thành đống đi.
- Làm thế nào cho kinh tế gia đình nó khá lên em nhỉ?
- Làm thế nào?
- Bây giờ trông những người buôn bán họ làm giàu rất nhanh, sốt ruột quá. Họ tiêu tiền đơn vị ngàn mà mình vẫn đơn vị đồng...
- Anh cố gắng sáng tác đi. Nhuận bút mới tăng cao lắm mà.
- Anh hết hơi mất rồi.
- Vậy thì biết làm thế nào?
- Hay là ta xin chuyển hẳn vào Sài Gòn tập trung làm ăn kinh tế đi em. Trong ấy có điều kiện hơn. Ta sẽ bán cái nhà ngói cổ với mảnh vườn quê rộng mênh mông này đi. Chí ít phải được vài chục cây vàng, lấy vốn làm ăn... Vào đấy, nhà đã có thành phố cấp. Nếu không làm ăn gì cả, vàng đây bán dần đi lấy tiền chén cũng sướng.
- Bở ăn thế, sao bây giờ mới nói với em?
- Thế anh mới rụt rè lẩm cẩm. Hết hi vọng ở âm nhạc rồi, quay sang đời sống thôi!
- Em có cảm giác trước lúc cầm cuốc ra vườn anh chưa có ý nghĩ này. Trước đây vài phút anh vẫn cay cú bên cây đàn mà.
- Không phải. Anh mong manh nghĩ đến chuyện làm ăn kinh tế từ lâu. Nhưng con rô cũng tiếc con riếc cũng ham. Dứt bỏ âm nhạc, dứt bỏ quê hương đâu phải dễ.
- Vào đấy là dứt bỏ âm nhạc sao?
- Không phải là bỏ hẳn, nhưng lao vào mục đích kinh tế thì không còn toàn tâm toàn ý với nó nữa. Hoặc giả khi âm nhạc trở thành một phương tiện để kiếm tiền thì nhất định nó cũng bị “chuyển màu”.
Thư ngồi xé những chiếc lá vàng thơm phức. Đầu óc lại vụt hiện lên hình ảnh Ý Lan mà anh gặp ở thành phố Hồ Chí Minh tháng trước. Lan vẫn trẻ đẹp lộng lẫy như xưa. Chín mười năm giời chả làm suy xuyển sắc màu gì.
- Còn anh thì hốc hác đi! “Ngày đầu” của anh vào đây tuyệt lắm. Em hát bao nhiêu năm rồi mà vẫn ăn khách - Lan bảo.
- Em đẹp quá.
- Đẹp cũng chả liên quan gì đến anh. Tình bạn tuổi học trò đấy nhé - Lan mặc cả - bây giờ vào nhà em uống ly cà phê.
Hai người gọi tắc xi. Bước chân lên cầu thang anh đã phải xuýt xoa: Em đẹp bao nhiêu thì nhà em cũng đẹp bấy nhiêu.
- Em biên chế ở Nhà hát, nhưng “đánh thuê” lung tung. Hát “chạy sô” mà, một tối chạy ba bốn địa điểm là thường. Trong này họ mê phong cách biểu diễn của em lắm.
- Những tiện nghi kia ai cho em.
- Mua hết. Toàn bằng tiền hát chạy sô. Anh vào đây cũng chẳng kém gì em. Anh là một danh ca, nhạc sĩ tình ca, chẳng mấy mà thành thần tượng của các tiểu thư.
- Nhưng anh hơi xấu giai.
- Bậy. Còn kẻng chán... Cho đến bây giờ mà anh vẫn cứ gắn bó với cái xó quê, mái ngói rêu mốc, với cô vợ của “dòng tu kín mến thánh giá” thì kỳ thật. Cuộc sống như sóng như thác mà anh vẫn trong đáy nước lững lờ... Này, em nhìn thấy rồi, trong cái túi xách oai thế kia nhưng chỉ có vài chục đồng công tác phí cơ quan cho thôi đấy. Em gái Ý Lan tặng anh trai của mình mấy trăm để anh trai uống cà phê sáng. Từ chối thì quê lắm dó.
- Hừm... Bằng này thì sao đủ... Gấp đôi đi. Anh bẹo vào má Lan.
- Đó! Đó! Có “phong cách” rồi đó! Giỏi lắm. Nhưng mà Ý Lan chỉ cho vậy thôi. Đủ rồi. Ý Lan chỉ thích anh giai mình uống cà phê thôi, chứ không được nhậu rượu say sưa tùm lum.
- Nhưng chả lẽ chỉ có hát chạy sô mà kiếm tiền thế này - Anh cảnh giác hỏi lại.
- Tất nhiên không chỉ có chạy sô. Chạy sô để lấy một cái vốn ban đầu rồi làm ăn. Khối cách làm ăn...
- Mình có một cái vốn khổng lồ ngủ mơ không biết. Lâu nay vẫn chịu lương ba cọc ba đồng.
- Nhưng ông cô bà chú có chịu cho bán cái nhà hương hoả này không - Chi bảo - ông nội làm ra nó, nên các cô, chú cũng có quyền giữ lại để làm nơi thờ cúng.
- Anh sẽ đem bài vị các cụ vào Sài Gòn.
- Chắc khó đấy!...
*
*    *
Anh lại ngồi trước cây đàn. Nhưng mà kỳ lạ sao trông anh lúc này giống hệt bác phó may đang ngồi cậm cạch bên chiếc máy khâu. Cả tiếng đàn của anh cũng tẻ nhạt y như tiếng xè xè của máy may. Cái xè xè của ông máy may còn ra sản phẩm, chứ của anh thì chỉ ra được những nốt nhạc lỏn nhỏn tựa cứt dê.
Anh đang cậm cạch may vá câu chữ vào những nốt nhạc của một ca khúc chán ngắt mà anh nhận viết cho một xí nghiệp làm bột giấy ở thành phố Hồ Chí Minh theo sự môi giới của Ý Lan. Đấy là bài có tính chất “xí nghiệp ca”. Anh sực nhớ ra là đã quá hạn nộp bài. Từ hôm qua, bất lực trước việc nắm bắt cái giai điệu mơ tưởng kia, anh đành cam phận quay sang làm anh thợ thủ công may vá mấy nốt nhạc này. Nhưng hình như anh là một ông thợ may vụng. Anh đã may kiểu vá chằng vá đụp. Có một mụn vá gay cấn nhất mà anh lúng túng như “thợ vụng mất kim” không sao ghép vào được. Đó là câu  “dưới sự lãnh đạo của thủ trưởng xí nghiệp”. Nhưng Ý Lan dặn dứt khoát phải có câu đó. Không có nó, bài hát vứt đi. Ác một nỗi cái mệnh đề toàn vần trắc chói tai đi liền nhau như vậy thì làm sao bắt vào “thang âm điệu thức” được. Đành phải cho hát lơ lớ như tiếng thầy phù thuỷ gọi ma: “Dươi sư lanh đao cua thu trương xi nghiep”. Rồi thì nghe trướt qua cũng trót lọt. Vá vào đấy cái tiết tấu nhảy nhót vui tai của nhạc nhẹ cho nó nhẹ bớt đi. Chứ mà “nhạc nặng” thì bằng bắt người ra gánh quả tạ trên vai...
Thư chấm dứt nốt nhạc cuối cùng rồi đấm lưng ho khù khụ giống hệt bác thợ già làm đêm quá sức. Bác thợ may đã may xong “một cái quần”, bác đang ngắm nghía, vợ bác thấy bộ dạng vậy, cười khúc khích.
- Em đừng coi thường - Thư nạt nộ - Ông giám đốc xí nghiệp có hứa bán cung cấp cho anh một tấn giấy để Nhà xuất bản in tuyển nhạc cho anh.
- Ồng ấy tốt quá nhỉ.
- Một tấn giấy, giá chợ đen vài chục ngàn đồng. Đổi một bài “xí nghiệp ca” lấy vài chục ngàn đồng, đâu phải chuyện đùa. Đúng là nhiều khi không có giá trị nào cao bằng giá trị nghệ thuật thật!
Thư vừa gập bài “xí nghiệp ca” đút vào phong bì, vừa sẩm nẩm nghĩ: Ngày hôm nay mình đã làm được một việc lớn, hoặc nói cách khác là đã “kiếm” được
vài chục ngàn đồng trong chớp mắt, chả đổ tí mồ hôi nào. Vậy mà Chi vẫn coi thường anh, cho là anh không làm ra tiền bao giờ.
- Chỉ mấy dòng nhạc này bằng em nuôi mấy lứa lợn đấy - Anh kiêu hãnh nói - Vài chục ngàn cơ mà!
- Vài chục ngàn của anh ở đâu chứ em có được sờ tờ nào...
- Tất nhiên vài chục ngàn này chuyển hoá thành giá trị tinh thần. Tập tuyển nhạc của anh đang nằm xếp hàng ở Nhà xuất bản. Anh có phiếu mua giấy giá cung cấp đưa cho họ, họ sẽ ưu tiên in chen ngang cho... Mình được in tuyển nhạc, thế là tốt rồi...
- Thôi em cứ chịu khó cậm cạch nuôi lợn được ngàn nào cầm chắc ngàn đó, chứ sờ được tiền của anh theo kiểu đó thì hóc lắm, vì nó “chuyển hoá” mất rồi còn đâu - Chi cười to.
- Thế em không tin những điều anh vừa nói à - Thư hơi giận.
- Không! Em tin chứ!...
- Vào Sài Gòn còn khối hình thức kiếm ra tiền, nhất là vớỉ một giọng hát như anh.
- Tại sao không viết thêm được bài nào như bài “Ngày đầu”.
Ngay cả “Ngày đầu” bây giờ anh cũng thấy có gì lạc hậu rồi em ạ. Anh đang có xu hướng ngả sang nhạc nhẹ. Lớp trẻ đang mê nó lắm.
- Thế cái nhạc từ xưa đến nay anh vẫn “dùng” là nhạc gì.
- Nhạc trí tuệ, hàn lâm, cổ điển.
- Toàn những thứ “oai” thế mà giờ lại thua một cái thằng “nhẹ” à.
- Không phải là như vậy. Đặt tên để phân biệt vậy thôi. Nhạc nào cũng có cái hay của nó. Nhạc nhẹ có tiết tấu nhảy có nguồn từ nhạc Ja, gốc tích ở nhạc dân gian của người da đen. Nó vui tươi, trong sáng, nhộn nhịp, thích hợp với tuổi trẻ. Anh nghĩ rồi, cái gì người ta thích mình phải chạy theo chứ... Anh thừa tài để “quất” những bài nhạc nhẹ.
Thư cúi xuống, ngón tay nhảy nhót trên phím - anh chơi thử một bản nhạc nhẹ nước ngoài cho Chi nghe. Những âm thanh giật nhịp vui nhộn vang lên. Anh bắt vào hát những câu khi cao vút lảnh lót tươi sáng, khi nhịp nhàng rộn rã. Anh lắc lư đầu, lắc lư vai, giật chân giật tay, nẩy mông lên khỏi ghế. Rõ ràng là anh cảm hứng thực sự trước ánh mắt ngây thơ lạ lẫm của vợ.
Chi đặt bàn tay đầy nhựa lá trong làn tóc rối của chồng đắm đuối:
- Anh tài lắm.
- Tài nhưng anh vẫn chỉ là thế này thôi.
- Đừng giày vò mình như thế - Chi phủi những hạt bụi trên vai chồng - Theo mẹ kể lại thì ngày xưa ông nội cũng tài không kém gì anh. Ông hát chầu văn và gẩy đàn nguyệt hay đến nỗi tượng Thánh mẫu trong điện thờ phải chau mày. Nhưng ông nội ngày ngày vẫn phải đi cày, và tối về buông cày ra, mới có thì giờ ôm chiếc đàn nguyệt bằng gỗ căng dây cước.
- Em định ôn nghèo gợi khổ đấy à.
- Không phải thế. Nhưng đúng là ông nội chỉ được “phát triển” tài năng tuyệt vời của mình trong các buổi chầu văn cho mấy bà đồng bóng dở hơi nghe. Các bài hát ông đặt ra cũng chỉ là để chòng ghẹo mấy cô gái làng mặc yếm tơ vàng hằn vú chũm cau mà thôi. Làm sao mà ông thông vanh vách những Mô-da, Bét-tô-ven, Sô-panh như anh bây giờ. Làm sao mà ông biết chòi mòi những của lạ như anh chòi mòi Rốc, Pốp. Làm sao mà ông nứt mũi ra một cái là đã được đem đi nuôi dạy hàng chục năm trong Nhạc viện như anh thuở nhỏ...
Thư ngồi nhìn đăm đăm những phím đàn...
*
*     *
Ngồi đun nước trong bếp, Thư vừa nghe tiếng nước réo sôi vừa lấy que dẽ đập lên thành siêu từng nhịp dò dẫm. Hôm nay là ngày thứ tư của đợt nghỉ, đầu óc anh lại quay sang tình trạng bị ám ảnh về một giai điệu tuyệt vời và mơ hồ mà anh đang tìm kiếm. Tiếng nước réo sôi một cách tuyệt vọng vì sôi rồi mà vẫn bị lửa hành hạ. Cái siêu nhôm mỏng có nguy cơ bị méo vì nhịp đập theo “phong cách” nhạc nhẹ liên hồi. Thư không phải người đãng trí nhưng đúng là anh đang tưởng tượng đến một cái gì do ngọn lửa phập phùng, tiếng nước réo sôi và tiếng que dẽ đập nhịp tạo nên.
- Em đổ cà phê vào phin rồi đấy, mang nước lên đi - Chi muốn cứu cái siêu.
Tiếng cà phê làm tai Thư rất thính. Chưa chi mà anh đã ngửi thấy mùi thơm quyến rũ của thứ thảo mộc kỳ diệu ấy!
- Này, đưa cho anh tập bản thảo trên mặt bàn.
- Bản thảo nào, có gì đâu?
- Bản anh đã ghi được khúc dạo đầu sau bữa cơm trưa hôm vừa rồi ấy! Anh sẽ tiếp tục làm việc ngay bây giờ để hoàn thành. Anh nghĩ kỹ rồi. Dứt khoát sẽ chọn tiết tấu nhạc nhẹ. Anh phải hoàn thành nó thì mới yên thân được. Đoạn nhạc dạo đầu ấy được đấy...
Chi đem lại chiếc kẹp trống không, còn sót độc nhất một tờ giấy chưa viết.
- Ôi... cái tờ có đoạn dạo đầu đâu rồi... Gió bay chăng.
- Đã kẹp thế này gió bay sao được.
- Em lấy lau bát đĩa chăng?
- Không.
- Trời, rõ ràng anh đã ghi được một đoạn dạo đầu mà... Chỉ mấy dòng thế thôi nhưng không đơn giản đâu nhé. Anh cậy là đã ghi được ra giấy rồi nên đầu óc nhãng đi. Giờ thì không mường tượng được nó thế nào nữa... Làm sao tiếp tục được cái mạch ấy bây giờ... Giống như bài văn mất đoạn vào đề.
- Nhưng em không động hề gì đến.
- Chả nhẽ có cánh bay...
- Hay là thằng Khuê ăn cắp dán diều rồi - Chi kêu lên - giấy trắng nõn mỏng tang đẹp thế này dán diều thì chỉ có nhất. “Ông ấy” mới gò được khung, vẫn loay hoay tìm giấy bản mà...
- Ôi!... Thư sững người... - Thảo nào nó cứ lượn lờ rình rập quanh cái đàn lúc anh ra vườn... Lấy đúng tờ đó đem đán diều thì chết cha người ta rồi!
- Nó đang chơi ngoài nội cỏ ấy. Ra hỏi xem thế nào - Chi sốt sắng.
Thư vội chạy theo Chi. Trời chiều đang lúc gió mạnh trên tầng cao, hàng mấy chục diều sáo, diều mòng, cánh bướm, cánh cốc chao lượn giữa làn nắng óng ánh. Bọn trẻ con với niềm say mê kỳ lạ, tay giữ chặt dây cước, mắt ngước đăm đăm. Có cả những chiếc diều to bằng cánh phản đeo sáo khổng lồ, đổ từng nhịp chuông văng vẳng. Diều không chỉ là trò chơi của trẻ con. Không. Nó còn là trò chơi của người lớn. Thư nhớ giấc ngủ tuổi thơ đêm hè của mình bao giờ cũng được ru trong khúc nhạc diều sáo thâu đêm. Tiếng sáo bè hoà nhau u u trầm bổng, trong vắt, ngân nga. Thư nghe thấy được ở đó là gió là sao là mây đang đồng ca khúc nhạc vũ trụ trong suốt tuổi thơ, Thư đã ngẩn ngơ vì nó... Lâu lắm rồi, 20 năm không ai chơi diều nữa. Hôm nay bất ngờ gặp lại...
Nội cỏ làng 20 năm nay biệt bóng cánh diều... Vậy thì vì lý do gì, cơn cớ gì mà mùa gió năm nay trẻ con người lớn cả làng lại “bùng lên phong trào” chơi diều. Chả lẽ Đảng uỷ xã “phát động chiến dịch” này chăng? Chứng cớ là chính ông chủ nhiệm mọi năm thì suốt đời quần ống thấp ống cao tất bật họp hành, mà bây giờ lại đang ngồi thong dong với chiếc diều có bộ sáo bè vang nhất bãi kia?
Thư bị ngợp dưới một bầu trời diều. Tiếng sáo rung nắng chiều, đánh thức toàn bộ cảm xúc âm thanh,
đốt cháy cả một vỉa chìm tiềm tàng tích tụ đáy sâu kín suốt tự tuổi thơ đến giờ... Thư ngu ngơ, ngu ngơ.
- Thế này là thế nào bác - anh hỏi ông chủ nhiệm - Tại sao năm nay có diều.
- Tôi cũng chả hiểu. Tự nhiên thế. Chả cứ làng ta, mà khắp nơi, y như có “chỉ thị” chung ấy, khà khà... Nhưng chơi diều thế này về ý nghĩa chính trị có gì sai không anh - Ông hỏi lại.
- Nhưng bác có thích không.
- Ôi tôi mê lắm. Nghe tiếng sáo nhẹ cả người ra. Thích tiếng sáo đến ngẩn ngơ ấy chứ. Mọi năm bận bịu vất vả, bây giờ no đủ, thanh thản... thả một cái diều, thấy vui lạ lùng.
Thằng Khuê từ nãy vẫn mướt mải mồ hôi vì diều - Bố! Cầm dây chạy dòng hộ con - Nó quát. Diều của nó vừa bị một cơn gió trái khoáy lật xuống đất.
Thư vội vã làm theo. Thằng Khuê chạy đến mô đất cao, đợi gió. Nắng chiều dội vào nó một màu vàng rực sóng sánh. Mắt nheo nheo một cách nhà nghề, thành thạo, Khuê nhìn lên tầng cao phán đoán. Đừng có tưởng gió thổi mát bên má là diều bay được đâu. Không. Đấy chỉ là gió tầng thấp, chỉ có tác dụng đẩy diều lên lúc đầu. Còn muốn bay, phải có gió tầng cao kia.
- Chuẩn bị... - Khuê hô.
Thư cầm đầu dây sẵn sàng chạy dòng. Kỹ thuật đâm diều không đơn giản. Khi diều đã được thả, người chạy dòng phải giật lùi dần, rồi lựa tở dây cho dài dần ra. Có khi phải chạy sấp chạy ngửa, dử diều chỉnh cho nó cân bằng.
- Mẹ đứng xê ra - Khuê lại hạ lệnh, bởi thấy mẹ cứ quẩn bên bố có nguy cơ làm vướng bố lúc chạy dòng.
Khuê đã đón được luồng gió, buông diều - Thư chạy liêu xiêu, giật lùi, vấp bụi gai. Hết sức có gắng rồi mà cánh diều vẫn chao bên nọ bên kia không ngoi lên được. Cuối cùng nó ụp xuống. Thư thật sự buồn rầu vì thấy mình chạy dòng không thành công. Thằng Khuê mắt cau cau, vẻ dè bỉu.
- Mẹ chạy dòng - Khuê “thay ngựa” luôn, rất quyết đoán, không một lời an ủi kẻ thất bại.
- Mẹ không biết chạy dòng.
- Không biết thì phải học chứ - Nó thản nhiên gắt gỏng.
Cuối cùng thì cái diều của nó cũng lên được. Tiếng sáo nghe u u hay ra phết. Nó cho Thư cầm đầu dây một lúc, y như ban phát ân huệ.
- Con lấy bản thảo của bố dán chiếc diều kia đấy à - Chi hỏi.     
- Bản thảo là cái gì?
- Là tờ giấy có ghi những nốt nhạc bố mới nghĩ ra ấy.
- Ôi dào, mấy nét nguệch ngoạc ấy mà gọi là bản thảo ư...
- Nó đây. Bố đang lo mất rồi, không nhớ lại được.
- Mấy cái chấm gạch lằng nhằng ấy mà quan trọng thế cơ - Thái độ nó hoàn toàn khinh thị.
- Trên cánh diều còn nguyên đoạn nhạc ấy phải không?
- Lúc dán con lựa mãi không giấu được chỗ viết rồi nên đành phải để nguyên.
- May quá, con cho bố xin lại “chỗ viết rồi” ấy đi - Chi điều đình.
- Nhưng con không thể xé diều của con ra được - Khuê đầy vẻ tức giận trước một đề nghị thô bạo đến như thế...
Đồng lúa đang kỳ xanh chói mắt. Trời cũng xanh không một gợn mây. Nắng vàng run rẩy, phập phồng trùm lên tất cả. Hàng chục cánh diều như đàn chim bay lượn giữa không trung trong vắt. Những đứa trẻ kia, và cả người lớn với ông chủ nhiệm kia đang cất cánh bay, cánh diều đem họ lên cao trong khoảnh khắc của buổi chiều nay. Và cả anh nữa, cả Chi, cũng đã cùng lên cao trên chiếc diều của thằng Khuê. Những nốt nhạc của khúc dạo đầu đang thả sức bay bổng cùng với nắng, và gió. Những nốt nhạc của anh đang ngấm cái màu xanh không gian, sắc nắng chiều quê và cái mênh mông của vũ trụ... Cái giai điệu mà ở dưới đất này, anh loay hoay mãi mấy hôm nay không tìm ra, thì khi ở trên cao ấy, nó ngân rõ mồn một bên tai. Lại diễn ra cảm xúc y hệt ngày xưa khi anh viết bản “Ngày đầu”. Những thanh âm kỳ diệu đang trào lên trong ngực anh. Tiếng sét cảm hứng đã nổ...
Y như khi cùng với gió tầng thấp, gió tầng cao đã thổi, cần phải chớp lấy giây phút đó, đâm diều ngay, anh rời bãi, chạy vội về nhà. Cơn gió cảm hứng tầng cao đang bắt đầu. Chiếc diều khúc hát của anh phải đâm lên bay bổng.
- Ô thế không lấy lại đoạn mở đầu à? - Chi chạy theo gọi.
- Không. Không cần.
Anh vấp phải chân ghế tựa và ngồi vào đàn. Năm ngón tay anh đầu tiên chỉ lướt nhẹ hồ mơ. Cơn gió mới đầu e ấp, ngu ngơ. Rồi nó quặn lại bùng lên, như lửa đã bốc, như men đã nồng. Cánh diều trắng muốt giữa trời xanh biếc. Cánh diều là những con thiên nga. Sợi cước là sợi nắng thiên nga ngậm nhả xuống lướt thướt đung đưa.
Chẳng có sợi dây nào từ dưới đất dòng lên trói buộc cánh bay của nó. Con thiên nga khao khát không gian xanh biếc vô tận kia. Con thiên nga trắng muốt trinh bạch toả sáng. Tiếng con thiên nga đang nói với bầu trời...
Thư mê đi, ngu ngơ, như trẻ con. Những ngón tay như làn sóng chạy trên hàng phím. Từ đó nắng đang toả, trăng đang chiếu...
Chi tưởng tượng màn đêm sẽ ập đến khi nắp đàn vụt đóng.
Chi thấy thời gian không trôi. Cô và anh sẽ ngồi như thế này mãi mãi, với lá với nắng, với trăng...
Thư nghiêng nhẹ đôi vai, mình nhún theo nhịp đàn. Vai và tay anh đang là cánh bay của thiên nga. Chẳng có vay mượn Rốc, Pốp nào ở đây cả. Anh đang bay bằng đôi cánh của anh, cao vút, tuyệt vời...
Chi ngồi ngắm Thư. Lạ lùng sao, cô lại thấy Thư hệt như ngày xưa, chạy vội qua đồi trên đống lá khô xào xạc và ôm chầm lấy cô. Cô kéo đầu anh vào lòng như một người mẹ cho con bú. Đôi môi anh trẻ trung ấm nóng, đôi mắt ngây thơ chớp chớp. Hoàn toàn không phải là một Thư luôn tự giày vò mình, khi nghi ngờ, khi hoang tưởng.
Cũng không phải là một Thư nghĩ quẩn, hoặc viển vông bởi những kế hoạch làm ăn chỉ nói mồm mà chẳng bao giờ thực hiện. ..
Thằng Khuê đã về bên cửa, trán lấm tấm mồ hôi như sương đồng nội buổi sớm. Tay nó cầm cánh diều còn dán những dòng nhạc. Nó ngây ra. Chi chợt nhận thấy đây là lần đầu tiên trong đời, nó đứng yên nghe bố chơi đàn.
1981.




Quà tặng của thiên nhiên
C
húng tôi bước lên sườn núi một buổi sáng mát dịu, những đám mây thấp màu bạc lấp lánh trôi. Tôi cầm tay Trang leo dốc. Sườn núi phẳng như không, nhưng hai đứa nắm chặt tay nhau làm như sợ tuột ra một cái là Trang có thể lăn xuống vực thẳm.
Chúng tôi dạo lững thững.
- Hay ta nghỉ một tí ở chỗ hòn đá kia đi - Tôi bảo.
Trang hơi né ra xa, vai áo em thoảng mùi thơm trội vượt lên, khác biệt giữa mùi hoa dại núi còn dính sương lạnh. Em chỉ tay về phía trước, chỗ ánh nắng đang lên làm tan nhanh những cụm mây phớt hồng.
- Núi Ngọc Mỹ Nhân kia anh kìa.
- Ừ, đẹp quá.
Đứng ở góc độ này tôi nhìn sang thấy hình Ngọc Mỹ Nhân rõ nhất. Quả núi chạy dài chẻ nhánh với những đường dịu dàng lạ lùng hình người con gái đẹp nằm nghếch mặt lên trời, chân duỗi song song, tay dang, mái tóc xoã dài. Giống nhất  là nơi bờ vai tròn và những đường lượn đẹp đẽ của cơ thể. Cô gái như một nàng tiên vừa ở dưới suối lên đang nằm ngắm mặt trời, thong dong, tự nhiên, như sự tự nhiên của con người thuở còn sống hoà lẫn với thiên nhiên cây cỏ.
Nhìn dải núi “người con gái đẹp” tôi lại nhớ đến Vĩnh - một bạn đồng đội ở chiến trường, bởi vì chính Vĩnh là người đầu tiên kể cho tôi nghe về dải núi kỳ lạ này nơi quê anh, mà ngày ấy tôi chưa một lần được thấy. Vĩnh nói chẳng phải chỉ lúc nhỏ mà mãi đến khi đã lớn, trong anh vẫn còn nguyên cảm giác bồi hồi lạ lùng mỗi lần đứng ở cổng làng nhìn về phía Ngọc Mỹ Nhân lúc mặt trời đang lấp ló, vành ánh sáng nan quạt loé lên sau núi. Tưởng như nàng Mỹ Nhân đẹp đến nỗi toả vầng hào quang. Ánh sáng từ ngực ngay chỗ trái tim! Những đám mây rực rỡ lởn vởn quanh. Người con gái đẹp vẫn mỉm cười chân duỗi thong dong. Những đám mây xao động bồn chồn, và người con gái có lúc như sắp đứng lên sau giấc ngủ dài.
Nhắc đến dải núi quê hương bao giờ Vĩnh cũng trầm ngâm đưa mắt nhìn ra xa.
Trong anh đang cháy bỏng một nỗi nhớ và tình yêu. Có một lần, tôi và Vĩnh đi công tác ở vùng Sing Mai đầy các đỉnh núi cao và cây lá bị B52 phạt trụi. Chúng tôi ngủ đêm ở đỉnh trinh sát máy bay. Trời đêm đầy sao thấp đến nỗi tưởng với tay được những mỏm núi nhiều hình thù nhấp nhô xung quanh. Vĩnh thao thức ngắm rồi thốt lên:
- Mỗi một trái núi đều sống và có tâm hồn cả đấy cậu ạ.
Tôi cười:
- Dạo này anh “suy tưởng” gớm!
- Không phải suy tưởng. Thật đấy. Tớ hỏi cậu nhé: năm ngoái chúng mình giữ chốt ở đồi không tên, mấy thằng hi sinh, vừa rồi tớ với cậu lại đi qua cái đồi không tên ấy, cậu có thấy bồi hồi không. Quả đồi cũng như nói gì với mình. Mà từ giờ đến hết đời, trong tâm trí mình sao dứt được hình ảnh nó. Đời lính chúng mình gần chục năm sống với Trường Sơn, đi mòn các mỏm núi, núi có nghĩa có tình lắm chứ. Mình yêu những dải núi... Núi Ngọc Mỹ Nhân ở quê mình cũng thế. Mình nhớ nó quá! Bao giờ kết thúc cuộc chiến tranh này, hết Mỹ, trở về, đầu tiên mình phải chạy ùa lên núi chơi một ngày cho thoả thích... Ngọc Mỹ Nhân chính là một nàng tiên trên thiên cung đấy cậu ạ. Nàng mê cảnh dưới đời, bay xuống chơi, uống nước giếng làng mình, mùi đời làm nàng không thể biến hoá bay lên với gió trăng được nữa. Nàng ở lại, ngủ một đêm và biến thành trái núi ấy...
Tôi mỉm cười nhìn Vĩnh. Đôi mắt anh trong sáng tựa mắt trẻ thơ vốn nhìn thấy mọi cảnh thần tiên trong các truyện cổ...
- Ước gì hôm nay vẫn còn Vĩnh để ba đứa chúng mình cùng ngồi ngắm núi Ngọc Mỹ Nhân nhỉ - Tôi nói.
Trang cắn môi ngồi im lặng.
Tôi đưa tay ngắt mấy quả cu rúc trong lùm cỏ dưới chân. Cu rúc núi, thứ quả đầy kỷ niệm của tuổi chăn trâu, ăn béo ngậy, thích đến nỗi ngày bé tôi chỉ ước lớn lên được suốt đời chăn trâu để ăn cu rúc núi.
Trái cu rúc chín vàng đến bây giờ chắc đã mất nhiều tín nhiệm về hương vị trên môi tôi. Còn Trang thì cười cười, hàm răng trắng như ngọc khẽ đẩy nó lăn tăn. Không, trái cu rúc, vẫn thứ quả mà chẳng bao giờ tôi quên được, nhất là sau buổi hôm nay...
Ánh nắng sớm ngày một lên cao toả run rẩy xao động trên núi. Trang đang nhìn xa xăm. Còn tôi thì nhìn những tia nắng trắng trong tinh khiết đang lặn dần vào gương mặt em.
Chợt một tiếng nổ rền từ phía núi Ngọc Mỹ Nhân dội lại.
Tôi giật mình. Sau hàng ngàn lần chịu đựng tất cả mọi thứ nổ đến bão hoà của chiến tranh, người ta vẫn  cứ có thể giật mình vì một tiếng nổ nhỏ giữa khung cảnh yên tĩnh này.
- Cái gì đấy - Tôi hỏi. Phía Ngọc Mỹ Nhân có làn khói bay lên.
- Mìn phá đá của công trường em đấy.
- Lấy đá núi Ngọc Mỹ Nhân à? Liệu có làm hỏng hình dáng cũ của nó không! - Tôi băn khoăn.
- Có thể - Trang cắn môi - Số lượng đá lấy khá nhiều!
Tôi ngạc nhiên nhìn Trang. Hình như Trang cũng không vui gì khi nghe tiếng mìn nổ vừa rồi. Đã thế, lại một dây chuyền nổ nữa tiếp theo. Lần này thì khói bay mù mịt trên núi.
- Sao lại lấy đá ở đây nhỉ - Tôi thốt hỏi khó hiểu.
- Đá hoa cương ở đây tốt. Người ta cần nó để làm nền, móng, tường khu công nghiệp liên hợp sắp xây dựng
ở đây. Vị trí gần, giảm được công vận chuyển. Bên công trình đang đòi hỏi rất gấp để thi công.
- Nhưng mà làm hỏng núi Ngọc Mỹ Nhân thì tiếc quá!
Trang chép miệng vẻ bất lực:
- Không thể khác được! Cũng bàn soạn chán, hôm nay công trường mới dám cho đội phá đá khởi công đấy!
- Nhưng mà...
Tôi nhìn Trang nhăn nhó. Mắt Trang đăm đăm nhìn làn khói. Vầng trán gợn những nét khắc khổ trông vẻ già hẳn đi. Bỗng chốc tôi sực nhớ ra trước mặt mình không phải là một cô gái mười tám đôi mươi, một nữ sinh còn thơm mùi sách bút; mà là một cô gái đã từng bám trọng điểm Trường Sơn, sống trong hang, bom đạn như xóc ốc trên đầu, ruồi vàng đốt sẹo đầy chân; và bây giờ đang là một nữ chỉ huy, trong ban lãnh đạo công trường xây dựng khu công nghiệp liên hợp. Và cố nhiên người ta chẳng thể đoán ra điều ấy khi nhìn cái dáng nhỏ nhắn tươi tắn của em đang đi chơi núi với tôi trong ngày nghỉ này.
- Nhưng mà... - Tôi nói - Dải núi thật là một quà tặng của thiên nhiên, mình phá hỏng sao đành.
- Làm việc này công trường cũng chẳng sung sướng gì. Nhưng công việc là công việc. Bao kế hoạch, bao hợp đồng đã đâu vào đấy. Đâu có thể bạ đá nào cũng đập ra làm móng, làm tường nhà máy được. Mùa thi công, không có vật liệu cho bên kiến trúc làm, ai chịu trách nhiệm. Máy về, nhà chưa có, lắp ra ngoài trời à. Mưa nắng hỏng bắt đền ai!
Trang còn nói dài dòng mọi thứ để chứng minh là công việc bất đắc dĩ, không đừng được, nên bắt buộc phải lấy đá ở Ngọc Mỹ Nhân, nhưng tôi gạt đi:
- Mặc kệ, anh không biết! Chỉ biết rằng bất kỳ thế nào cũng không được làm hỏng hình dáng của trái núi này.
Trang thở dài rồi chép miệng:
- Thật khổ! Một đằng là nhà máy, một đằng là trái núi...
- Đừng đối lập hai cái với nhau. Phải có cả nhà máy lại phải có cả trái núi đẹp. Không thể được cái này, mất cái kia.
Trang mỉm cười:
- Nói như anh dễ lắm. Nhưng giá anh là một công trình sư, một người trong ban chỉ huy công trường này thì anh chẳng mạnh miệng đến trơn tru được thế đâu. Tiền vốn có bằng này, thời gian có thế kia, công nhân phương tiện có hạn, yêu cầu chất lượng công trình lại phải bảo đảm ở mức cao. Đâu chuyện dễ anh ơi!
Tôi buồn rầu:
- Giá Vĩnh còn sống, trở về và trở thành một người trong ban chỉ huy công trường như em; chắc chắn anh ấy không để cho người ta phá mất trái núi Ngọc Mỹ Nhân của anh ấy.
- Anh nói gì - Trang chợt quay phắt lại như có một dòng điện lạ, tạo nên một phản ứng lạ. Ánh mắt Trang chợt sáng lên như vụt thức dậy một điều gì...
*
*     *
Chúng tôi “quen” em sáu năm rồi mới biết mặt em. Qua dòng chữ ẻo lả bằng mực xanh viết trên trang giấy trắng muốt của lá thư em, tôi với Vĩnh ngồi đoán về gương mặt, dáng hình và cuộc sống của em. Cuộc sống em thì có thể hình dung được, bởi nó gần với đời lính chúng tôi, em, cô thanh niên xung phong ở cung đường trọng điểm!
Đêm ấy, một đêm Trường Sơn đầu tháng ba, đom đóm từ các gốc cây bay ra, lập loè, nhấp nhánh; đơn vị tôi hành quân bằng cơ giới tiến sâu vào tuyến trong. Đường qua ngầm Ê-si, một ngầm trọng điểm nổi tiếng ác liệt. Tiếng đồn ra tận ngoài Bắc, vào tận trong Nam. Chính trị viên chuẩn bị tinh thần cho anh em chu đáo. Không khí căng thẳng, tất cả sẵn sàng nhảy vọt xuống xe phân tán theo kế hoạch bảo toàn lực lượng khi có B52. Tiếng nổ xa vẫn âm âm quanh đây làm rung rinh muôn vàn đốm đom đóm; xe vẫn tiến. Ở Trường Sơn tiếng nổ ì ầm quanh năm cũng giống như người đau bụng kinh niên lúc nào cũng thấy lâm râm trong ruột. Đã đến trọng điểm, có tiếng ho sẽ. Những chiếc xe sang số rú ga lầm lũi bò. Bỗng bất ngờ từ hai bên đường, như một cảnh thần tiên, trong ánh đom đóm xanh biếc li ti lấp lánh, một đoàn con gái áo trắng xô ra vẫy tay reo hò. Tiếng con gái trong vắt ríu rít làm cho ai nấy sững lại. Những giọng nói con gái tươi trẻ yêu đời như một làn gió mát làm chúng tôi bừng tỉnh. Những đoàn xe vẫy lại. Tiếng reo của lính ghê gớm hơn. Vang cả rừng.
- Xe chậm lại - Có tiếng hét.
- Hải Hưng đây!
- Nam Hà đây!
Những tiếng kêu tìm đồng hương vội vã. Bàn tay vẫy của những cô gái thanh niên xung phong bám ngầm Ê-si như níu lấy chúng tôi. Nhưng những chiếc xe vẫn gầm gừ lăn bánh. Những tà áo trắng trong đêm phấp phới. Các cô gái đã mặc đẹp đứng đón chúng tôi.
- Quê Bác đây!
- Thủ đô đây!
- Quê hương quan họ!
Các chàng lính vội lục trong túi áo ngực tìm những lá thư. Những lá thư viết sẵn khát khao và tha thiết, để trên đường ra trận chúng tôi thường ném xuống cho các cô thanh niên xung phong chợt gặp giữa rừng. Để rồi chúng tôi sẽ lại nhận được những lá thư tung lên tung xuống như đàn bướm trắng vỡ tổ.
Tiếng cười nói ríu rít; thư lả tả. Thư tung xuống bay nhanh hơn, lượn một vòng giữa hàng chục cánh tay con gái xúm xít như trong tượng nghìn mắt nghìn tay. Thư tung lên bay là là. Xe tôi đang bò bỗng nhiên dừng lại, máy vẫn gừ gừ; cậu lái thản nhiên tung cửa ca bin đón một lá thư như hái một cành hoa ban. Những tiếng quát của các cậu lái xe sau vừa gắt gỏng vừa buồn cười. Để bù lại thời gian đã đỗ, xe tôi rú ga vượt lên đột ngột, làm tất cả ngã kềnh. Những lá thư vẫn cứ tung phấp phới. Tôi nhìn một cô gái chạy sát theo xe. Em chưa nhặt được lá nào. Em vẫn chạy. Rồi tôi sung sướng khi thấy em đã đón bắt được một lá. Em không chạy nữa. Và chắc em hồi hộp. Em sẽ đọc được những gì trong lá thư này và sẽ có một người bạn trai không biết mặt như thế nào...
Về phía tôi, đêm ấy không có vận may. Đối lập với tôi là Vĩnh, anh đón được một phong thư trắng muốt, nó như phập phồng xao động hơi thở và như thoảng mùi thơm của tuổi dậy thì. Sáng hôm sau đến bãi khách, Vĩnh thương hại tôi, cho đọc chung. Người con gái thanh niên xung phong viết thư ấy tên là Trang. Em không gửi kèm ảnh. Ở Trường Sơn, cái gương chả có, nhiều khi cả đại đội mới có một chiếc soi chung; thì lấy đâu ra ảnh. Em kẹp trong thư bông hoa rừng ép mỏng. Cánh hoa vàng nâu uốn dịu dàng, những đường gân li ti. Mùi hoa khô sực nức toát ra từ trang giấy và những dòng chữ. Em kể về cuộc sống của em ở ngầm E-si như thế nào, một ngày bao nhiêu trận bom, và các em đã giữ ngầm ra sao. Em quê ở một miền đồi trung du, nhà em sát chân núi, chiều chiều dê gọi đàn kêu vang trong ánh hoàng hôn tím sẫm và chạy tung tăng giữa những chiếc nón lá già vàng hoe của bọn trẻ đi chăn.
Nhà em trồng nhiều trám xung quanh như một rừng nhỏ. Những năm Mỹ bắn phá, dầu hoả đắt em thường cạy nhựa trám nắm thành nến về đốt học đêm. Mùa nhựa trám thơm ngào ngạt, đọng luẩn quẩn trong nếp quần áo và mái tóc, sáng hôm sau đi học, ngồi trong lớp người em vẫn bay ra mùi nhựa trám thơm thơm. Tháng tám gió heo may, trám chín vàng sáng cả cây, một hơi gió xạc xào, trám rơi lộp bộp trên nón, em nhặt đựng trong rổ bưng ra bậc đá bờ sông, bán cho các chú lái ca nô kéo gỗ bè áp bến thổi nấu. Em đi thanh niên xung phong đã được ba năm. Em nhớ mẹ và đồi trám quê nhà. Em hẹn bao giờ chiến thắng về nhà em chơi, ăn xôi đồ với nhân trám. Cứ qua phà sông Lục đạp ngược lên ba cây số là đến nhà em.
Chúng tôi xem thư bồi hồi, tưởng như Trang chính là một người bạn cũ. Vĩnh kẹp thư trong giấy bóng đút túi. Rồi năm này qua năm khác, thỉnh thoảng tôi với Vĩnh lại ngồi giở ra đọc và nói chuyện về cái cô Trang không biết mặt ấy...
- Liệu bây giờ Trang có còn sống không nhỉ. Ngầm Ê-si địch đánh ác liệt lắm - Vĩnh hỏi.
- Sao cậu độc miệng thế - Tôi gắt - Chỉ nói gở.
Vĩnh im lặng nhận lỗi. Rồi ao ước:
- Giá chúng mình được gặp Trang một lần thì thích nhỉ.
- Khó gì, kết thúc chiến tranh thì cậu về mà gặp! Về mà ăn xôi đồ với nhân trám.
- Tớ với cậu cùng về nhé.
- Ừ cùng về, cậu nhát lắm!
Lá thư của Trang, Vĩnh vẫn “độc quyền” giữ trong túi áo. Đã thay quân trang đến mấy chục lần mà thư không rách, chỉ chuyển từ túi áo cũ sang túi áo mới. Chịu Vĩnh, giữ tài thật! Bao nhiêu trận mặt giáp mặt với địch, chịu bom chịu đạn, đất vùi xuống lại trồi lên, áo quần rách mướp mà thư vẫn còn. Mùa khô năm ngoái tôi với Vĩnh còn ở Trường Sơn, nhưng mùa khô năm nay chúng tôi đã chuyển xuống, luồn sâu trong các căn cứ kênh rạch đồng bằng Nam Bộ, đánh đặc công. Cả hai vốn là dân đồng lụt bơi lội giỏi, nên cứ dầm người như nhái nơi cửa sông rình dò địch. Ấy thế mà lá thư của Trang vẫn không bị nhoè ướt...
Một đêm, tôi không nhớ là đêm mấy tháng mấy nữa, chỉ biết hai chúng tôi được lệnh tiêu diệt địch ở cửa Lòng Tàu. Trời tối, chiếc căn cứ nổi mới đến, điện sáng như một thành phố nhỏ. Tàu tuần tiễu địch chạy quanh. Ánh sáng bảo vệ rọi trên mặt sông tưởng như con cá nào quẫy sóng cũng bị phát hiện. Tôi và Vĩnh núp trong bụi cây ven bờ. Mọi tài liệu về chiếc căn cứ nổi đã được nguồn tin tình báo cho biết kỹ càng. Trinh sát cũng đã làm việc. Gói thuốc nổ cực mạnh ôm trong tay, Vĩnh bảo: “Không cần cả hai đứa lặn sông, để một mình mình làm cho”.
Tôi không nghe. Vĩnh nghiêm nét mặt:
- Nhiệm vụ của cậu đã hoàn thành. Vũ khí đã được vận chuyển đến đây an toàn. Hai đứa đã lọt qua hàng chục vòng bảo vệ trên bộ của địch. Thế là thắng lợi một nửa rồi, bây giờ cả hai đều cảm tử là vô ích. Chỉ cần một. Mình bơi lội giỏi hơn. Đây là mệnh lệnh. Mình là tổ trưởng chiến đấu, mình phụ trách cậu.
Vừa nói, Vĩnh vừa chuẩn bị tư thế làm nhiệm vụ. Rồi căn dặn: “Nếu có động, cậu bắn nghi binh yểm hộ rồi rút theo phương án. Cứ để kệ mình xoay xở, đâu sẽ có đó”. Anh mỉm cười: “Chờ mình ở địa điểm K nhé”.
Trên sông, tàu tuần tiễu vẫn đi quanh như đèn cù. Tôi cảm thấy Vĩnh khó mà trở về an toàn được. Nước mắt tôi rưng rưng.
- Có lẽ anh cởi quần áo ra lặn cho nhẹ.
- Không, mình không muốn. Nếu phải hi sinh mình không muốn thân thể nổi lên mặt nước một cách trần trụi.
Tôi chợt để ý hôm nay Vĩnh mặc quần áo mới, thắt lưng to bản gọn gàng, và mái tóc cắt tỉa đẹp đẽ.
Nước mắt tôi tự nhiên lã chã. Tôi ôm chặt lấy anh không muốn rời. Vĩnh đẩy tôi ngã ngửa.
- Cậu như đàn bà ấy.
Chân anh đã lội xuống nước, chợt nhớ ra, anh quay lại móc túi:
- Cậu cầm lấy lá thư của Trang. Sau chiến tranh hãy về tìm gặp Trang nhé.
Rồi không thêm một lời nào, anh ôm gói thuốc nổ nấp dưới đám rong đặc, lặng lẽ tránh những đường đạn bắn vu vơ trên mặt sông. Tôi nhìn theo, chỉ một loáng đã mất hút anh. Không để lại vệt tăm trên nước. Anh lặn tài thật.
Tim tôi thót lên từng nhịp, súng lên đạn sẵn sàng nghi binh dử địch khi có động.
Đêm hôm ấy, Vĩnh không về địa điểm K với tôi được. Nhưng mấy trăm tên lính Mỹ vừa được Tổng thống Hiệp chủng quốc tiễn sang Việt Nam còn ở căn cứ nổi, chưa kịp đặt chân lên đất liền, đã vĩnh viễn gửi xác lại trên sông, không bao giờ được trở về Mỹ quốc nữa. Kho vũ khí khổng lồ chứa trên căn cứ nổi nổ tung, tàu bè tan xác, từng mảnh ván trôi lềnh bềnh. Sông bị tắc xác người và xác tàu ứ dềnh lên.
Tôi khóc, những giọt nước mắt trước chiến thắng và những giọt nước mắt thương nhớ Vĩnh làm nhoè ướt nhiều dòng chữ trên lá thư của Trang. Hoá ra những dòng chữ của Trang lại là kỷ vật duy nhất để lại của Vĩnh. Tôi giữ lá thư. Tháng 4-1975, ngày 30, lá thư theo tôi trong đoàn quân tiến về Sài Gòn.
*
*    *
Tôi ngồi trong văn phòng ban chỉ huy cung cấp vật liệu ngắm những cột biểu đồ xanh đỏ cao thấp, chỉ số lượng gạch đá sắt thép phải có cho việc xây dựng khu công nghiệp liên hợp. Tôi đợi Trang, Trang đi gặp đồng chí Tổng công trình sư và Ban lãnh đạo vì một việc hệ trọng. Và tôi chờ đợi cái kết quả mà Trang đạt được trong quá trình thảo luận với các đồng chí ấy. Bỗng nhiên, tôi thấy nóng ruột lạ thường. Tôi, anh lính đến đây chơi, một người khác, nhưng sao ruột gan cứ bồn chồn hết cả lên vì một công việc của công trường chẳng liên quan gì đến mình...
Nhìn qua cửa kính, tôi ngóng. Trang đi đã ba tiếng đồng hồ. Ba tiếng đồng hồ hội họp, đề đạt, tranh cãi thảo luận, biết em có đạt được kết quả không. Tôi mong em xuất hiện trên con đường bụi mù xe tải công trường kia và vẫy tay nói to lên gác: Xong rồi anh ơi!
Bốn giờ ba mươi phút. Thời gian càng lâu, chứng tỏ sự việc càng gay cấn. Tôi hồi hộp, sao tôi lại hồi hộp nhiều thế không biết. Hình như suốt bao năm đánh nhau,
tôi học được sự bình tĩnh hơn. Ngay cả trước giờ nổ súng. Vậy mà bây giờ tôi hồi hộp. Hay là tất cả những gì liên quan đến Trang, đến những người con gái, dễ làm ta hồi hộp hơn. Phải, có nhẽ tôi đã nhận ra điều ấy từ buổi đầu đến gặp Trang. Với chiếc Hon-đa chiến lợi phẩm đơn vị tặng làm kỷ niệm, vượt bến phà sông Lục hôm ấy tôi đã đến thẳng chân núi Huyện. Tôi đã đến, đúng như lời dặn của Vĩnh. Với lá thư chuyền tay nhau suốt sáu năm ròng và nhoè nước mắt tôi ngày Vĩnh hi sinh, tôi tìm rặng trám đang mùa heo may lá vàng xao xác. Bậc đá bến sông đây; những chiếc Ca nô kéo còi khàn đục áp bến thổi nấu; rặng trám với tiếng dê kêu be be trên đỉnh núi; tôi đứng ôm gốc trám, nén tất cả những gì đang cồn cào trong ngực, đợi một tiếng thưa sau hàng rào nứa đan ô vuông vàng óng. Và Trang đã xuất hiện ở đó với những giọt nắng lọt qua giàn nho, rọi sáng hồng trên mặt ngỡ ngàng nhìn người khách lạ...
Hôm ấy tôi đã được một bữa hồi hộp ra trò. Nhưng bây giờ, hôm nay đây, trong văn phòng ban chỉ huy cung cấp vật liệu, bên cái hồi hộp tôi còn thấy phấp phỏng lo lắng. Tiếng mìn nổ ngoài núi Ngọc Mỹ Nhân vẫn rền rĩ, khói bay mù mịt. Tôi biết, nghe tiếng mìn ấy Trang cũng bồn chồn. Bởi vì Trang đã cảm thông đầy đủ cái điều mà tôi quan tâm. Ngọc Mỹ Nhân quả núi quê hương của Vĩnh. Anh yêu nó biết nhường nào! Anh gắn bó với nó từ tuổi thơ. Cái cảm giác lạ lùng của anh khi trên lưng trâu nơi cổng làng, nhìn nó lúc mặt trời lấp ló phía sau toả bắn vầng ánh sáng rực rỡ như hào quang quanh người con gái đẹp! Câu chuyện cổ tích của anh
về nàng tiên uống nước giếng làng, nặng mùi đời, ở lại với cánh đồng quê anh!... Bây giờ anh không còn nữa. Mỗi trái núi có một tâm hồn, Vĩnh đã nói với tôi như thế; và tôi cũng đã nói lại với Trang như thế. Tôi cảm thấy Ngọc Mỹ Nhân giờ đã mang tâm hồn của Vĩnh. “Giá Vĩnh còn sống và trở thành một thành viên trong ban chỉ huy công trường như em thì chắc chắn anh ấy sẽ có cách khác, không động chạm gì đến trái núi”. Phút cuối cùng tôi lại nhắc lại với Trang như vậy. Trang cứ cắn môi. Buổi dạo chơi núi đang nhẹ lâng hôm ấy bỗng dưng hoá ra nặng như cối đá. Trang thở dài chau mày suy nghĩ. Sự việc gay cấn quá. Nhưng tôi tin em sẽ tìm ra giải pháp sáng sủa. Nhất định thế, bởi vì Ngọc Mỹ Nhân với Vĩnh thế nào thì bây giờ với em cũng thế. Vấn đề chỉ còn là biện pháp giải quyết. Trông Trang lặng lẽ tính toán, tôi vừa phục vừa thương. Trán em nhăn lại khắc khổ và già đi. Chắc bao lần ở Trường Sơn em đã phải như thế. Bao tình huống đòi em giải quyết để thông đường. Mưa trôi sạt núi, bom giội đứt đường, em đã vượt qua thì bây giờ em cũng sẽ vượt qua. Mắt đăm đăm em nhìn đi đâu, có khi ngắm xoáy vào một búi cỏ. Em rút tay ra khỏi tay tôi lúc nào. Tôi lẽo đẽo theo sau, im lặng. Không cả dám ho và bước mạnh. Tiếng ồn dễ phá rối những con tính đang mờ mờ hiện hiện trong óc người ta.
- Anh! Thôi được, đi về đi anh, em có cách rồi - Đang đi Trang quay lại nhìn tôi.
Có cách rồi nhưng mặt em vẫn chẳng tươi lên được tẹo nào. Trời hôm nay đẹp quá, những đám mây xanh ngắt, mới có tám giờ, mấy khi có một buổi chơi núi
thế này. Vậy mà Trang giục về đi! Tôi băn khoăn gãi tai. Băn khoăn chẳng kém gì vấn đề núi Ngọc Mỹ Nhân cả! Nhưng Trang cứ dứt khoát về.
- Nói thực với anh, người chịu trách nhiệm cung cấp đá cho công trường chính là em. Kế hoạch, hợp đồng đã đâu vào đấy. Nhưng em sẽ đề nghị ban lãnh đạo công trường họp lại về vấn đề này. Cố nhiên các đồng chí lãnh đạo công trường ai cũng khổ tâm lắm khi phải đánh mìn ở Ngọc Mỹ Nhân; chẳng qua là sự khắc nghiệt của tiền vốn, thời gian và sự yêu cầu bền vững của vật liệu nó dồn mọi người đến việc bất đắc dĩ thôi. Nhưng bây giờ em phải nghĩ cách khác! Đội cung cấp vật liệu kiến trúc chúng em sẽ xung phong đến dãy núi đá Đầu Tròn cách đây năm chục cây, khai thác rồi tuyển chọn những lô đá hoa cương tốt đem về. Mở một công trường khai thác đá ở xa đâu phải việc đơn giản; chỗ ăn ở cho công nhân, công vận chuyển, tuyển chọn, v.v... Đá hoa cương ở Ngọc Mỹ Nhân thuần chất, được hòn nào xong hòn ấy, ở Đầu Tròn còn sàng lọc khướt. Số công sẽ vọt lên ghê gớm, gấp mấy lần. Nhưng mà làm sao được. Phải làm việc với tốc độ khác thôi!
Trang quay lại nhìn tôi, cẩn thận em nói thêm:
- Tuy nhiên, việc này mới là sáng kiến đề xuất và sự quyết tâm ở phía em. Còn phải thảo luận với toàn ban chỉ huy công trường để biến thành nghị quyết chung. Ngày mai anh đến đợi kết quả nhé. Em đi họp về là biết cụ thể...
... Nắng chiều qua cửa chớp rọi vào tập tài liệu trên bàn giấy văn phòng ban chỉ huy cung cấp vật liệu
kiến trúc sáng lấp lánh. Trên chiếc bàn này Trang đã ngồi làm việc hàng ngày. Trong ngăn bàn, bên những văn phòng phẩm của một thủ trưởng còn thấy mảnh gương nhỏ của con gái. Trang đã ký bao nhiêu giấy tờ giải quyết công việc ở đây, và đã soi gương trộm lúc không có cán bộ cấp dưới đến báo cáo.
Tôi bâng khuâng giở những tập thiết kế, lơ đãng nhìn các hình cong xoắn xuýt như mớ tóc rối trong những khối tròn vuông. Một khu công nghiệp mới sẽ và đang được mọc lên bên núi Ngọc Mỹ Nhân. Ánh điện đêm đêm sẽ rực sáng cả vùng này càng soi rõ bóng người con gái đẹp in trên nền trời đen nhung huyền ảo. Vĩnh ơi anh có biết điều ấy!...
Có tiếng xịch ngoài cửa. Tôi giật mình quay lại xoá nhanh những suy nghĩ đang hiện hình trên nét mặt. Trang đã về, bên cánh cửa xanh tươi như tàu lá, em mỉm cười - một nụ cười tươi nhẹ nhõm chưa bao giờ thấy.
- Xong rồi, xong tất cả rồi anh ạ. Toàn ban lãnh đạo công trường đã đồng ý với phương án của em bằng một thái độ... vô cùng sung sướng!
Hà Nội 1982


Những đồng tiền han rỉ
T
hành phố sau cơn mưa đẹp như người con gái từ sau màn nước suối bước ra.
Tôi đi qua phố chợ. Hè đường tràn ngập những hàng. Đồ sứ cổ, đồ pha lê ngoại quốc óng ánh; đồ may mặc xếp đống hoặc treo mắc rực rỡ; đồ hộp, kẹo bánh, trái cây chất như núi. Máy ra-đi-ô cát xét, dàn Tếc, ti vi mô đen mới nhất còn nguyên trong hộp xốp...
Chợt tôi để ý. Có một mảnh ni-lông nhỏ rải trên nền gạch khía, bày những đồng tiền cổ han rỉ, xanh lét. Những đồng tiền vành tròn lỗ vuông tượng trưng cho “trời tròn, đất vuông”. Đủ các loại. Loại xưa nhất, lỗ rất to, không viền kẻ, không chữ. Loại gần hơn, ghi cả niên đại. Có loại to bằng miệng chén, miệng bát. Những đồng tiền đã hoàn toàn mất giá trị ngân hàng. Han rỉ, xanh lét, hơi đồng tanh tanh. Người chủ bán tiền đang quay đi đối thoại với một ông khách, thề sống thề chết bảo đảm đó là đồ cổ thứ thiệt, không phải tiền cổ giả làm ở Chợ Lớn, mời mua giùm.
Anh ta quay lại.
Tôi giật mình sững người. Người bán tiền cổ cũng giật mình chẳng kém gì tôi.
- A...
- A...
- Có gì mà “a” nhỉ - Tôi nói.
- Thì tại Kim “a” trước mà - Người bán tiền đưa tay vuốt tóc, cô làm mặt tỉnh bơ.
“Xoẻng” những đồng tiền cổ được bày cẩn thận trên nền ni lông bị bàn tay anh ta quơ ném vào trong túi xắc loẻng xoẻng. Những đồng tiền tung lên như tràng nhạc.
- Kim đi đi... Đứng đây làm gì.
- Anh Phái... Đến nỗi như thế này ư - Tôi không nén nổi.
- Thì đã sao! - Phái nghênh mặt, hàng ria đen ngang tàng vểnh lên. Với một điệu ngổ ngáo cố ý, Phái vuốt mái tóc dài lợp tai trên gương mặt đen sạm - thứ da của người chuyên ngồi hè phố hít bụi hứng nắng. Chiếc quần bò gấu tướp cáu bẩn, bụi đời... Tuy nhiên vẫn không che giấu được vẻ ít thành công trong cuộc vật lộn tìm miếng ăn...
Tôi nhếch môi cười nhạt.
*
*    *
Trường Kinh Tài của chúng tôi dạo ấy đóng ở một vùng trung du xanh biếc. Ngày ngày ăn cơm mì luộc,
rau muống chấm muối, chúng tôi vùi đầu vào nghiên cứu quy luật phát triển kinh tế của xã hội loài người. Bụng đầy khoai sắn, trên giảng đường chúng tôi sang sảng giọng lý luận về nền tài chính của quốc gia này, quốc gia kia trong các thời cận đại, hiện đại, rút ra cho họ những thành công, thất bại. Với chủ nghĩa tư bản, chúng tôi hạ cố biểu dương một vài điểm trong nền kinh tế của thời kỳ đầu mới phát triển. Chúng tôi nắm trong lòng bàn tay khoa học quản lý các ngân hàng quốc gia, khoa học điều khiển đồng tiền trong kinh tế xã hội, và vay nhau từng hào để ăn quà sáng.
Phái học rất giỏi. Anh cùng lớp với tôi và thật dễ thương. Giọng nói Nam Bộ của anh như gió cuốn, sôi nổi, nhiều từ ngộ nghĩnh, cách diễn đạt thoải mái tự nhiên. Mình lẳn cá trắm, da đồng hun, mắt sáng xanh, anh đẹp một cách khoẻ mạnh. Bên ánh đèn dầu trong ngôi nhà vách đất của vùng trung du nghèo, tôi và anh vẫn châu đầu bên sách giờ học nhóm. Chẳng biết ai đã xếp tôi cùng nhóm với anh. Nhà trường coi học nhóm là nội dung chính của phong trào thi đua. Ai chăm học nhóm sẽ được là tiên tiến. Vậy thì tội gì tôi không học nhóm. Vừa được là tiên tiến, chúng tôi lại vừa được gần gũi nhau. Bởi vì trong năm cuối cùng, anh có những dấu hiệu thầm lén yêu tôi. Tất nhiên là phải giữ kín, có “đánh chết” cũng “không khai”. Đang học mà yêu nhau cuối khoá trượt về “đạo đức” như chơi.
Là lớp phó phụ trách lao động, Phái thường chủ ý phân công cho tôi những công việc nhẹ, còn bản thân anh thì gương mẫu nhất trong các giờ lao động.
Anh làm khoẻ. Và ăn cũng khoẻ. Ngày ấy các bạn trai thường gọi anh là “ngôi sao đang lên” của các mâm cơm. Lót dạ sáng bằng một củ khoai không đủ no để ngồi nghiền ngẫm quy luật kinh tế loài người, anh thường lẻn ra quán mua những quả nóng
, giá cả một hào mười quả; thứ giá cả không có thấy nói trong các thang bậc vật giá; và cái thứ hàng cũng không có thấy nhắc đến trong các tài liệu kinh tế; thứ quà hạng bét ấy, ăn chát xít cổ nhưng với anh hồi ấy là ngon tuyệt vời.
Học bổng của tôi dành dụm được hào nào, tôi thường mua sắn cho anh ăn. Sắn đầu mùa béo ngậy, bở tơi. Mới đầu tôi mua sắn đã luộc sẵn ở quán hàng. “Đối chiếu với lý luận” nhận thấy như thế “không kinh tế” lắm, chúng tôi bèn cắt bỏ khâu “thương nghiệp” để đi thẳng từ sản xuất đến tiêu dùng. Phái nhận trách nhiệm đi mua trên nương và dỡ lấy đem về; tôi bắc nồi, cạo vỏ luộc. Những bữa sắn với chúng tôi ngày ấy là những buổi liên hoan nho nhỏ.
Ngày ấy chúng tôi vui vẻ và hồn nhiên quá, chả biết cái gì cả. Ngốc nghếch lắm. Chỉ yêu nhau là giỏi thôi. Yêu nhau thì chẳng ai bảo cũng đã biết rồi... Tốt nghiệp đại học, vừa dịp miền Nam giải phóng, Phái được lệnh vào Sài Gòn ngay để tham gia công tác cải tạo tư sản. Hôm chia tay, Phái cầm tay tôi (hình như đó mới là lần đầu tiên thì phải). Tình yêu của chúng tôi mới chỉ là thứ tình yêu mơ mơ thực thực của tuổi học trò.
*
*    *
- Đến nỗi như thế này ư... Anh Phái...
- Thì đã sao.
Những đồng tiền cổ xủng xoẻng trong chiếc túi da. Giá anh là người thời cổ, có thể anh là người đang có tiền. Nhưng rất tiếc lại không phải là như vậy. Và điều này nữa; những đồng tiền cổ kia có gì bảo đảm để không phải là tiền cổ giả. Nghi ngờ lắm...
- Kim vẫn “ăn rau muống đi xe đạp” dài dài chứ - Phái nhếch môi khinh đời, lặp lại câu nói mà anh đã hỏi tôi trong một cuộc gặp gỡ với bối cảnh khác hẳn hôm nay...
... Người làm vườn chạy vội ra mở cánh cổng biệt thự Mác-gô vào cúi gập người chào tôi - Cái chi tiết mở đầu của cái bối cảnh hôm ấy là như thế. Tôi sững sờ và e dè. Người làm vườn tay vẫn cầm chiếc kéo tỉa cây cảnh. Con béc giê béo mượt cổ đeo nhạc đồng rún rẩy quanh bác ta; đưa mắt nhìn tôi, công nhận cho tôi là người có thể đi qua lối sỏi dẫn đến bậc đá bịt đồng ngôi biệt thự kín cổng cao tường này.
- Anh Phái ở đây có phải không bác - Tôi cẩn thận hỏi lại.
- Vâng ông đang ở phòng đọc sách, mời cô lên - Người làm vườn không cần hỏi tôi là ai, rất lễ phép dẫn tôi qua những hành lang, cầu thang ốp đá bóng loáng.
Tôi dừng lại trước một cánh cửa bọc kền mở sẵn. Phòng khách lộng lẫy làm tôi choáng mắt. Những tấm rèm trắng như tuyết; bộ sa lông bọc nhung đỏ; thảm len trải sàn với hoa văn cổ Ba Tư. Trên bàn kính một mô hình chùa Đế Thiên Đế Thích mạ vàng phản quang
lấp loé. Mùi nước hoa thơm nức từ trần nhà, tường nhà toả ra.
Tôi vừa ngồi xuống sa lông thì Phái xuất hiện từ cửa phòng bên. Anh gật khe khẽ, không có vẻ vồ vập, nhưng cũng không quá thờ ơ.
- Ồ... Em vào Sài Gòn từ bao giờ... Ồ... thế là gặp lại em... vẫn bảo viết thư cho em mà quên khuấy đi mất.... May quá, em lại vào trong này.
- Em vào Sài Gòn công tác được một tháng rồi... Một người bạn cho em địa chỉ của anh. Hôm nay em đến thăm anh.
- Thăm anh! Rất tốt! - Phái nhe răng cười như thằng ngớ ngẩn, sửa lại cái kính trắng gọng bạch kim, rồi gật gù - Hay... Tuyệt - Phái đưa tay ra nắm tay tôi.
Tôi nhìn thẳng vào mắt Phái. Không phải là người bạn học nhóm mà tôi dành từng hào học bổng để mua sắn luộc cho ăn ngày nào nữa rồi! Kỳ quá nhỉ... Mới có nửa năm trời! Trông anh đặc một công tử - trí thức xuất thân từ các gia đình triệu phú. Béo trắng, bệ vệ, quần áo bò Mỹ và vẻ hồn nhiên giả tạo, cố tình.
Đập gót giầy si-mông xuống thảm, Phái như khoái trá nghĩ ra một điều gì, và tay cũng đập đập lên vai tôi. Nhưng chờ mãi chẳng thấy anh nói gì... Hoá ra chẳng có gì cả, Phái chỉ nhe răng nhìn sát mắt tôi:
- ... Em... Rất đẹp...
- Và anh rất giầu phải không - Tôi không nén nổi sự mỉa mai...
- Giầu... Ồ... không... Anh vẫn là thằng Phái ăn quà bằng quả nóng luộc ngày nào.
- Vẫn còn nhớ được thế cơ à? Tưởng quên mất rồi.
- Nhớ chứ... - Phái ngất ngưởng đứng dậy, ngông nghênh dạng chân và nhún nhẩy như sắp sửa một điệu van, rồi tới cửa ấn một nút chuông.
- Em cho là anh giàu lắm sao - Phái nháy mắt - Có gì đâu, ba cái thứ này, bà cô anh, bả cho mà. Bả mới là người giầu. Hai biệt thự, cái này là cái xoàng, bả cho anh.
Từ cửa phòng bên, một người ở gái mặc Kimônô Nhật Bản lộng lẫy, nghe hiệu chuông; bưng chiếc khay bạc đựng hai ly cà phê bốc khói bước ra. Cô ta cung kính quỳ xuống theo đúng điệu... Nhật, hai tay dâng khay.
Phái cầm một ly đưa lên miệng, uống hững hờ. Tôi chưa lấy cà phê thì người ở gái chưa đứng lên.
- Sao anh không đến cơ quan anh Phái?
- Đến làm gì - Phái mở to mắt ra vẻ ngạc nhiên.
- Em nghĩ là anh có một cơ quan và một công việc ở đấy...
- Chuyện cổ tích rồi. Gút bai tất cả!
- Anh bỏ hết.
- Người ta chỉ có thể dùng từ bỏ khi người ta đã có một cái gì.
Tôi nhìn vào mắt Phái:
- Ồ... Thế mà trước đây em tưởng là anh đã có. Những kiến thức...
- Ba thứ đó chẳng có giá trị gì khi người ta ních vào bụng toàn sắn luộc và đã vội cho là ngon nhất trần đời! - Phái phá lên cười...
- Nói thế, chẳng hoá ra miếng ăn là trên hết sao...
- Thôi... Anh bây giờ lạc hậu về chánh trị quá xá... Kém em nhiều... Ta nói về tình yêu, về cuộc đời đi em.
- Thì chính em đang nói điều đó.
Điếu 555 trên môi Phái nhả khói liên tục.
Hút hết điếu này, cắm điếu khác, khói phun phì phì như trò đùa.
- Có phải cơ quan cử em đến đây để vận động anh trở lại làm việc không?
- Anh muốn hiểu thế nào thì tuỳ.
- Em về nói lại với cơ quan rằng tiền lương cơ quan trả cho anh không đủ để con hầu gái kia nó ăn bún ốc.
- Em sợ rồi anh hối không kịp.
- Thôi cho qua chuyện đó... Bây giờ em thích lấy đồ tặng như thế nào? Một cặp áo dài nhé...
- Cám ơn, em không cần gì hết.
- Vào trong này phải ăn mặc cho đẹp đó em.
- Thế à - Tôi nhếch môi mỉa mai cười...
- Thôi được, em còn “lên gân lên cốt” lắm - Phái gật gù - Rồi em sẽ “mềm”... Tạm coi như anh nợ em một cái gì đó. Bất cứ lúc nào cần, em chỉ cần nhấc ống điện thoại, con hầu của anh nó sẽ đem đến tận nhà.
- “Con hầu”... Em đang nói chuyện với một ngài bá tước hay nam tước nào đây nhỉ?
Phái trừng mắt:
- Em đến đây để “chỉnh huấn” anh chăng. Nói cho em hay rằng bây giờ anh không muốn nghe ai “bắt ne bắt nét” mình, kiểu như em vừa rồi. May mà em là một cô gái đẹp có nhiều kỷ niệm ngây thơ trong sáng với anh... Anh muốn chúng ta vẫn giữ “tình bạn” như xưa. Nếu không thì anh không đủ kiên nhẫn nghe những lời em nói.
Tôi buồn bã quay đi, lơ đãng nhìn ra vườn. Không thể tiếp tục nói chuyện với Phái lúc này được nữa...
- Đứng lên... Nào, em... mời em... chúng ta đi ăn một cái gì đó giống như quả nóngsắn luộc ngày nào - Phái cười vang.
Tôi bước theo anh xuống vườn, nơi chiếc Tôyôta đỏ chói nằm dưới bóng mát cây cọ châu Phi. Phái đeo găng trắng cầm lái. Tôi ngồi ở nệm sau. Chiếc xe lăn bánh trên đường sỏi rồi vút ra đại lộ thẳng xuống hướng Chợ Lớn. Thấy tôi ngồi yên chịu sự sang trọng của anh áp đảo, Phái bắt đầu thao thao.
- Bà cô anh cưng anh như con mà... Đứa con gần gũi nhứt. Bởi con bà ở bên Mỹ cả mà. Bà già kỳ cục lắm. Thấy anh ở Bắc vào trên lưng chỉ có chiếc ba lô con cóc, bà ứa nước mắt thương...
Chiếc Tôyôta bon nhẹ nhàng. Lột chiếc kính trắng xuống, mắt Phái chớp chớp:
- Cô anh thiệt là tài. Nhà anh ngày xưa đâu có giầu vậy. Nội anh ở miệt vườn. Bình thường lắm mà. Anh nhớ khi đó anh còn nhỏ xíu; còn cô anh chừng 16, 17 gì đó vẫn đem trái cây lên tỉnh bán hàng ngày. Anh thường ra ngóng bóng xe thổ mộ chiều chiều... Trong ánh nắng vàng, cô anh thường chạy lại ôm chầm lấy anh và cho những chiếc kẹo mua trong hiệu Hoa Kiều trên phố. Cô cười thật xinh, răng trắng nõn, đẹp lạ lùng.
Mắt Phái nhìn ra xa. Câu chuyện có vẻ thiệt dài nhưng xe đã đến cửa nhà hàng Bát Đạt. Một người hầu bàn quen trông thấy anh vội chạy ra đón. Dáng điệu Phái ngông nghênh một cách khác thường. Những “công tử” đang “đập phá” trông thấy anh lộ vẻ e nể. Chúng biết anh là công tử như chúng, nhưng lại vừa là “việt cộng” ở Bắc vào. Chúng có thể nhiều tiền và biết ăn chơi hơn anh, nhưng làm sao mà chúng có được cái “vế thứ hai”.
Phái gọi sâm banh và các thức ăn mắc tiền. Anh như người biểu diễn tính quý tộc trong suốt bữa ăn, để không ai phát hiện ra nét “quê một cục” nào còn rơi rớt trong anh.
Tôi uống từng ngụm sâm banh nho nhỏ. Uống mà chẳng thấy vị gì. Mặt Phái đỏ hồng lên ngay sau chén đầu tiên. Anh không biết uống rượu, nhưng cố làm vẻ say sưa. Rồi đến một lúc anh say thật. Không hiểu sao trông anh say lại thấy dễ thương hơn lúc tỉnh.
- Cô bán trái cây vườn nội được tiền thường để vốn riêng. Thỉnh thoảng nội hỏi: “Tiền của tau đâu” thì cô cười khanh khách: “Giá trái cây trên tỉnh rẻ như bèo mà”. Giọng Phái nho nhỏ, đứt nối mơ hồ... Tôi ngạc nhiên một lúc rồi mới hiểu. Hoá ra Phái đang tiếp tục câu chuyện về bà cô của anh. Anh thật sự xúc động vì ký ức. Anh đang kể như một người độc thoại.
... Cô cứ làm nũng nội hoài và nhe răng cười rất xinh. Có lẽ vì miệng cười xinh quá ấy mà nội thôi không đòi tiền cô nữa hay sao đó... Anh còn nhớ như bây giờ, một hôm có một thầy ký lục lộ đang làm đường qua miệt vườn, vào chơi nhà nội nhân tiện mua ít trái cây. Thầy ký trẻ và đẹp như anh bây giờ. Thầy vận toàn đồ trắng: quần tây trắng, áo trắng, mũ trắng, giầy trắng...
Cô anh trèo thoăn thoắt lên cây trẩy xoài cho thầy. Thầy đứng dưới gốc ngửa cổ lên. Còn cô thì như con sóc chuyền cành nọ sang cành kia. Có lẽ vì thầy chịu mua với giá rất mắc nên cô vui ríu rít. Xuống gốc, cô trao cho thầy một giỏ đầy trái cây thơm lựng. Thầy ký móc tệp tiền ra trả. Tiền mới xoảng; một tệp to, thầy không đếm, không cần biết nó là bao nhiêu... Chỉ biết quãng đó có thể mua toàn bộ số xoài của cả vườn...
Hôm ba anh và anh đi tập kết ra Bắc, cô tiễn chân ra ngoài bến xe thổ mộ. Cô mếu máo với ba anh một chút, ôm hôn anh một chút rồi vội vội vàng vàng băng ra đường. Ngoài lộ nhựa tiếng xe Sô-lếch của thầy ký lục lộ giòn tan. Chiếc Sô-lếch mất hút trên đường xa đem theo hình bóng cô với tà áo bà ba trắng tan nhoà trong nắng...
Hôm ở Bắc vào tiếp quản Sài Gòn, anh vẫn toan tính xe đò trở lại miệt vườn xưa, tìm một người cô cổ đeo khăn rằn, miệng ngậm thuốc sâu kèn, vợ thầy ký lục lộ quèn xứ quê, ngồi bán trái cây ngoài chợ tỉnh, hầu bao căng phồng những đồng lẻ cáu bẩn.
Vậy mà hoá ra anh lại gặp cô trong phòng khách một nhà triệu phú. Bà chủ nắm nhiều đầu mối áp phe đồ nhập cảng xưa, khóc ròng. Bà nói: mẹ mày mất sớm, tao vẫn coi mày như con... Bà bảo với mọi người vậy là bà có con trai là Việt cộng ở Bắc mới vào. Trong buổi kỷ niệm sinh nhật anh, bà trao cho anh một chiếc hộp mạ vàng. Mở ra: hai chiếc chìa khoá bọc giấy bóng. Hai chiếc chìa khoá sáng loé lên dưới ánh điện. Một chiếc mở cửa biệt thự Mác-gô; một chiếc mở xe Tôyôta...
*
*    *
Tôi nghĩ thật khó mà có dịp trở lại gặp Phái lần thứ hai. Một năm liền, cũng không lần nào tôi nhấc ống điện thoại. Hình ảnh Phái bắt đầu chìm dần trong sự bận rộn của cuộc sống hàng ngày.
Vậy mà rồi một hôm, tự nhiên tôi lại nẩy ra ý định đến thăm anh. Tôi lại đạp xe đến bên cánh cổng sắt xanh biếc giữa hàng găng xén tỉa của biệt thự Mác-gô. Vẫn cánh cửa sắt biển treo “Nhà có chó dữ”. Tôi ngần ngại, không phải vì sợ nhà có chó dữ. Nhưng rồi vẫn nhận chuông. Cô sen mặc áo kimônô ngày trước chạy ra. Cô nhận ra tôi ngay. Nhưng hoàn toàn không có vẻ khúm núm ngày trước nữa. Thản nhiên cô hất hàm:
- Lại hỏi anh Phái phải không?
Cô đập vào vai tôi một cái mủm mỉm cười.
- Anh Phái...
- Phái phủng của chị không còn ở đây nữa...
- ...
- Thế chị chưa biết gì sao?
- Biết gì?
- Thế mà đằng này cứ tưởng đằng ấy là người thân nhất của hắn ta...
Tôi sững sờ một lúc:
- Anh Phái bây giờ đâu?
- Nào ai biết.
Tôi nhìn về phía cây cọ châu Phi trong vườn. Dưới bóng nó vẫn chiếc Tôyôta đỏ chói ngày xưa.
- Ai đấy? - Một giọng the thé sắc nhọn từ sau ô cửa trong nhà cất lên. Rồi một người đàn bà phì nộn tóc hoa râm, mặt bự phấn, mặc váy đầm bước ra...
- Thưa bà cô Kim ạ.
Tôi giật mình. Tại sao cô sen biết tên tôi.
- Cô Kim hả... mời cô vào chơi... - Người đàn bà vội niềm nở - Cô tìm cháu Phái hả... Phái vẫn nói với tôi về cô luôn... Chúng tôi vẫn chờ cô đến thăm mà...
Tôi ngần ngại. Người đàn bà đưa bàn tay trắng xanh, mềm nhão nắm tay tôi.
- Em xinh quá, chị mới gặp mà đã mê... - Người đàn bà dịu dàng vuốt tóc tôi. Eo lưng của bà chuyển uốn một cách mềm mại - Vào phòng khách đi em.
- Anh Phái...
- Phái đi bụi đời rồi em à... Thỉnh thoảng mới về đây lấy tiền.
- Trời...
- Có gì mà ngạc nhiên em. Tuổi trẻ “nổi loạn” mà. Em có phải là người thân nhất của Phái không?
- Không...
- Vậy à... Vậy thì chị có thể nói thêm điều này để em rõ. Phái là một người quá đáng lắm... thiệt chị không chịu nổi.
- Xưa kia anh ấy là một người tốt.
- Xưa kia hai người cùng học với nhau phải không - Người đàn bà duyên dáng hỏi - Em là bạn của Phái thì cũng coi như là bạn của gia đình này. Chị rất thèm tuổi trẻ của em... Thuở xưa chị cũng đẹp như em bây giờ... Nhìn em chị lại thấy quá khứ của mình... Trời, ước gì...
Người đàn bà nhắm mắt mơ màng. Rồi bà tiến lại ấn hai nhịp chuông. Cô sen suồng sã với tôi ban nãy thoắt lại trở nên khúm núm lễ phép kiểu... Nhật Bản. Cô lại bưng cà phê và trái cây bánh ngọt ra và lại quỳ dâng lên trước mặt tôi.
- Trước lạ sau quen, em hãy coi chị là chỗ thân tình đi. Chị muốn làm quen với em... Chị thèm tuổi trẻ... Đừng có e dè xa cách thế em... Ồ... sao em không đeo một cái gì vào cái cổ trắng ngần này một chút cho nó thêm xinh...
Người đàn bà nói ríu rít. Đôi mắt liếc loang loáng sắc như dao. Đôi môi thoắt mím thoắt mỉm cười... Quả là nụ cười của bà xinh thật, đúng như lời Phái tả lần trước. Bà cầm ly cà phê, những ngón tay của bà kiểu cách, quý phái lạ mắt. Rồi bà tháo chiếc dây chuyền có đính hạt xoàn trên cổ mình, đặt vào cổ tôi:
- Cho chị ướm thử một tý. Trời, cái dây này phải đeo vào cái cổ trẻ trung tuyệt đẹp này mới xứng. Nó phải lẵng nhẵng trên cái ức già nua của chị thì khổ thân nó quá...
*
*     *
Chúng tôi bước lững thững thoát khỏi khu phố chợ ồn ào. Cái túi xách tiền cổ vẫn xủng xoảng trên tay Phái.
- Anh đưa tất cả những đồng tiền kia cho em - Tôi nói.
- Cô làm gì! - Phái trố mắt.
- Em mua.
Vừa nói tôi vừa giằng lấy cái túi.
- Trời... Cả sản nghiệp của anh đấy mà.
- Tất cả chỗ này có đáng giá mấy trăm đồng “giải phóng” không. Sản nghiệp gì mà nghèo dữ vậy.
- Anh bây giờ chỉ có thế thôi.
- Còn biệt thự Mác-gô, xe Tôyôta, con hầu và người làm vườn.
- Chẳng còn gì hết.
- Sao nó lại bay biến nhanh thế... Chả lẽ đó chỉ là ảo ảnh, là giấc mơ.
- Ảo ảnh... Giấc mơ... Có thể.
- Bây giờ em mời anh đi ăn một bữa sắn luộc. Sắn trong này gọi là gì nhỉ... Mì hả... Phải, em mời anh đi ăn một bữa mì luộc. Nhưng anh nên nhớ là nó cũng có giá trị như bữa cơm anh thết em ở nhà hàng Bát Đạt
năm ngoái.
Phái thẫn thờ bước theo tôi. Nói vậy tôi, chứ chúng tôi vào một quán cà phê vắng.
- Bà cô anh nói: anh đi bụi đời.
- Bụi đời là cái gì anh không hiểu.
- Nhưng bà ấy nói thế.
- Bà nói láo. Bà đuổi anh ra khỏi nhà.
- Tại sao thế.
Phái nhún vai không nói.
- Tại sao anh lại để bà ấy đuổi một cách dễ dàng thế?
- Chả dễ dàng thì sao. Nhà của bà ấy, xe của bà ấy, tiền của bà ấy... Anh có là cái gì đối với bà ấy đâu...
- Anh có là cái gì đấy. Có là cái gì thì bà ấy mới gọi cho anh nhà, xe, người hầu...
- Cháu ruột thì có nghĩa lý gì.
- Không! Không phải chuyện họ hàng.
- Tất nhiên khi ở Bắc vào, anh là một cán bộ cách mạng đi làm công tác cải tạo tư sản... Mà bà ấy thì đang là tư sản. Vớ được anh, bà ấy như vớ được vàng...
- Bây giờ thì vàng hoá thành đất, có phải không?
Phái ngước cặp mắt xanh biếc buồn rầu nhìn tôi. Những chòm râu xanh rì một màu hoang dại quanh cằm.
- Khốn nạn thân anh, anh đâu ngờ... Bà ấy biến anh thành kẻ giữ nhà không công cho bà ấy. Hai biệt thự, con đi di tản, làm sao bà ấy giữ trọn cả hai. Cho anh cái Mác-gô, Mác-gô có chủ mới là cán bộ cách mạng, ai còn động đến nữa. Ngày một ngày hai, bây giờ “sóng yên biển lặng”, Mác-gô lại trở về chủ cũ.
- Em nghĩ rằng bà ấy đuổi anh ra khỏi nhà là đúng. Anh chỉ có giá trị với bà ấy khi anh đang là cán bộ cách mạng làm công tác cải tạo tư sản. Một khi anh bỏ cơ quan, bỏ chức việc thì rõ ràng anh trở thành vô dụng 100% rồi. Vậy bà ấy còn cần gì đến anh nữa.
Khói ly cà phê toả mờ nhoà trên mặt Phái.
- Anh bây giờ xôi hỏng bỏng không...
- Sao lại xôi hỏng bỏng không. Nghề bán tiền...
- Ba cái đồng tiền cổ giả Chợ Lớn làm này thì là cái gì.
- À đấy nhé, anh đã nói là tiền cổ giả, vậy nó chỉ đáng giá trăm bạc là cùng. Đây, anh bán cho em - Tôi móc ví đưa cho anh hai tờ năm chục.
- Ăn hết chỗ này thì anh sống bằng gì.
- Mặc kệ anh, em đâu có biết.
- Em cho anh xin lại những đồng tiền cổ kia... - Phái năn nỉ.
- Để anh lại đi đánh lừa người mua là đồ thật à... Chuyện đó đâu có được. Anh quên rằng bây giờ em là cán bộ cơ quan làm công tác kinh tế, tài chính của thành phố à.
Phái cúi gục xuống bàn. Không còn một chút dáng dấp nào của cậu Phái công tử mở cửa chiếc Tôyôta ngông nghênh tiến vào nhà hàng Bát Đạt ngày nào.
Chuông đồng hồ nhà hàng điểm sáu tiếng. Tôi đứng dậy.
- Thôi. Em phải về... Chào anh nhé... Địa chỉ của em...
-   Hãy khoan - Phái níu lấy tôi như người chết đuối vớ được cọc... - Em bảo anh phải làm thế nào bây giờ. Anh trở đi mắc núi, trở lại mắc sông. Anh bỏ cơ quan đã một năm rồi. Nhưng chỉ là bỏ cơ quan, chứ tuyệt nhiên không mắc tội gì khác nữa...
- Bỏ cơ quan là một tội lớn nhất chứ còn gì nữa - Tôi bật cười.
- Anh sẽ xin chịu kỷ luật... Nhưng liệu cơ quan còn thương đến anh...
- Thương thì vẫn thương, song còn vấn đề nguyên tắc. Nhưng em nghĩ cơ quan cũng sẽ có cách để cứu vớt anh. Bởi nếu không anh sẽ càng đắm chìm trượt ngã xuống hố... Thôi chào anh. Hẹn gặp lại nhau sau...
Tôi đạp máy chiếc Hon-đa, vù ga. Phái chạy theo:
- Kim ơi... Đừng bỏ anh nhé...
Tôi ngoảnh lại gật đầu, thật nghiêm túc:
- Ngày mai mời anh đến...
- Ngày mai... - Tiếng Phái chìm vào tiếng động cơ xe như nước chảy trên đường phố.
Xe qua cầu Công Lý, tôi dừng lại, nhặt những đồng tiền han rỉ xanh lét ra, ném thia lia xuống mặt sông đen đục. Những đồng tiền cổ đồ giả, giả giá trị, mất hút ngay tức khắc không để lại một tăm hơi.
Sài Gòn 1981.



Con bướm nhỏ
N
ắng chiều vàng óng màu hổ phách rọi qua tàng cây xanh đậm. Những trái dẻ rừng nứt vỏ gai, đánh rơi từng hạt nâu bóng tựa cườm trên những ngọn cỏ non. Một em bé gái như một cánh bướm nhỏ trắng muốt đang đuổi theo những hạt dẻ lăn. Chùm tia nắng nhấp nháy nhảy theo bước chân em...
Bức tranh dựng lên, cô lùi ra xa đứng ngắm. Ngoài cửa sổ mưa bụi. Trời xám nhạt màu thiếc. Gió ào ào bứt những chiếc lá vàng của cây cơm nguội, ném rơi lả tả trong phòng, bay chạm vào chân cô.
Cô nhắm mắt lại. Những chiếc lá cơm nguội hay là những chiếc lá dẻ...
- Con bướm trắng kia nó bay theo em suốt từ nãy đến giờ.
- Tại sao cánh bướm lại trắng một màu trinh bạch kỳ lạ thế nhỉ.
- Tự nhiên nó thế. Nó giống như là em đấy.
Cô nhắm mắt lại. Cô không muốn nhìn thấy những chiếc lá cơm nguội đang bứt bay ngoài trời xám lạnh. Cô đang nhìn thấy màu cỏ non tơ như ăn được; những tia nắng vàng óng reo như tiếng bọt bia tan nhè nhẹ. Rồi cô thấy hơi ấm xực của đống lửa sưởi đốt bằng cành dẻ khô, mùi hơi khói, tiếng dẻ nướng lụp bụp. Anh đặt một hạt dẻ bỏng rẫy vào lòng bàn tay trắng nõn và mỏng manh như cánh hoa hồng bạch của cô. Ôi giời ơi nóng quá. Cô thổi phù phù và đưa lên miệng cắn vỡ lần vỏ giòn tan...
- Bướm ơi vào đây sưởi - Cô gọi. - Nhưng mà thôi, bay đi, đừng dại, anh này anh ấy sắp thò tay bắt đấy...
- Đừng hòng người ta cho hạt dẻ nướng nữa - Anh đáp lại...
Ào ào... ào ào... Gió rung cành dẻ gì mà khiếp thế nhỉ... Cô mở mắt. Gió đánh sập cánh cửa kính. Những chiếc lá cơm nguội cào cào vào mặt kính ẩm sương. Những chiếc lá cơm nguội rét mướt run lẩy bẩy. Cô cố lắng nghe tiếng vỏ gai nứt lách tách, tiếng hạt dẻ rơi xuống nền cỏ êm, nhưng không sao thấy được nữa. Hết tất cả rồi...
- Em mới “làm” xong bức sơn mài này đấy à - Chồng cô từ phòng bên hững hờ bước vào hỏi...
Cô chưa kịp trả lời.
- Em ở nhà nhé. Anh đi họp đây - Chồng cô vội tiếp và chỉ vào chiếc cặp da đen cầm trên tay.
Ngoài sân, chiếc com-măng-ca đã nổ máy chực sẵn. Anh bệ vệ bước vào; động tác thành thạo quen thuộc. Rồi anh soi gương xe vuốt lại chiếc áo đại cán màu be hồng,
và chiếc quần bộ đội. Đó là “lễ phục” chuyên dùng cho các hội nghị của anh. Anh có đủ áo len, com lê, măng tô, nhưng chỉ mặc ở nhà... Còn bước chân vào các cuộc họp bao giờ anh cũng lo trước nhất trang phục thật giản dị, tóc cắt cao, chân đi dép râu Trường Sơn...
Khói xăng xe để lại khét lẹt trên sân. Cô vội vàng sập cửa lại. Khói xăng đã lọt vào trong phòng rồi. Mùi xực nức. Cô chả còn thấy mùi hạt dẻ nướng thơm thơm, mùi cỏ non dập gẫy, và tiếng xèo xèo như bọt bia tan của những tia nắng được nữa...
- Tại anh!
- Không. Tại mình. Mình đã kiêu kỳ. Mình đã nhầm lẫn.
- Có phải là sự nhầm lẫn không?
- Hình như không phải
- Vậy thì tại cái gì.
Không biết. Cô không biết. Cô không muốn biết. Nói đúng ra là cô không muốn gọi đích danh nó. Cô chỉ muốn nhớ đến những kỷ niệm liên quan đến anh. Một dòng sông rất xanh, xanh đến lạ mắt, ít ra là đối với đôi mắt trẻ con của cô và của anh ngày ấy; mà chiều chiều cô vẫn ra gánh nước và thường thấy anh bơi như rái cá ngược dòng trong nắng vàng lấp lánh.
Một hôm cô trượt bến sỏi ngã sấp xuống nước, đôi thùng tôn chìm nghỉm lăn đi đâu mất. Cô mếu máo. Mất đôi thùng về thì mẹ cô dần chết.
- Ngạn ơi... Bơi vào đây mò hộ tớ mí.
Thằng bé lặn túp xuống đáy nước. Nó múa may
ở dưới đáy sỏi như trò đùa, tóm chân con bé rồi nhô lên cười sằng sặc.
Phải, tất nhiên lúc đó hai đứa đã để ý gì đến nhau. Khi hai đứa cùng phải đi trọ học xa, mẹ cô còn đến nhà Ngạn dặn: “Đứa nào bắt nạt con Dung mày bênh nó hộ bác nhé”...
Bênh? Thì hẳn thế rồi. Nhưng mà hình như chả cần ai phải bênh cô thì phải.
Cô tha bắt nạt đứa khác thì thôi chứ ai dám bắt nạt cô. Bởi vì càng lớn lên cô càng đẹp. Mà sắc đẹp là một vũ khí toàn năng nhất. Chỉ có một điều là nhà cô túng quá. Mẹ ốm. Chiều chủ nhật chả còn gạo để vác đến nhà trọ nữa. Mẹ cô vừa gượng cười vừa bảo con: “Thôi nghỉ học Dung ạ”. Và mếu máo câu đùa cũ rích: “Con gái học nhiều chỉ giỏi viết thư cho giai”. Chiều ấy Ngạn đến gọi Dung, Dung quệt nước mắt: “Ngạn lên thưa thầy hộ tớ...”.
- Ơ kìa làm sao thế?
- Tớ học kém lắm chả chắc đỗ đại học...
- Thì cứ theo nốt chương trình cái đã...
Ngạn cầm tay cô lôi kéo. Không đi cũng không được cơ. Hai đứa ở hai nhà trọ cạnh nhau. Cô nhìn qua rào, thấy Ngạn nấu ăn có một bữa; và chiều chiều ra đồng bắt cua mót khoai để ăn bữa tối. Còn cô, có muốn ăn hai bữa cũng chả lấy đâu ra. Số gạo Ngạn xẻ cho vừa đủ bẩy bữa cho bẩy ngày trong tuần. Cô đói đến quặn bụng. Cho tới một hôm, phải, một hôm, cô vẫn nhớ như bây giờ, anh bưng ở đâu về một đống nan, giấy màu, để đầy trước hè nhà bà chủ.
- Cái gì thế Ngạn - Cô hỏi.
- Cái này hay lắm. Dung ngồi vót cho mình những chiếc nan...
Dung ngần ngừ. Nhưng Ngạn chỉ một loáng đã gập nan, dán giấy thành hình một ông tiến sĩ tuyệt đẹp. Ông tiến sĩ mặt trắng phấn, hiền từ, mắt một mí nhỏ ti, không râu, đội mũ cánh chuồn, áo rực rỡ kim tuyến, ngồi trong kiệu, đằng trước có biển “Ân tứ vinh quy” đằng sau cờ xí rực rỡ. Ngạn vừa dán nốt những nếp vân trang kim trên áo ông vừa ngâm nga “Chín toà sen rớt hơi hương ngự. Năm thức mây phong nếp áo chầu...”
- Ngạn còn thích đồ chơi trẻ con này à - Cô hỏi.
- Không thích cũng phải thích. Bây giờ thì Dung làm theo mình đi. Xem tiến sĩ của đứa nào bán được nhiều tiền hơn.
Bây giờ thì cô hiểu. Cô vốn có hoa tay. Chẳng khó khăn gì cô làm được những ông tiến sĩ đẹp bằng mấy của anh. Mỗi chiều, cô ban mũ áo cho hàng chục vị. Ngày rằm tháng tám sắp tới. Những bà hàng đến “cất hàng” của cô. Cô với anh vừa ngồi gạo các bài tổng kết, vừa thoăn thoắt cắt dán.
- Dung ạ, phải cho các vị tiến sĩ có râu nó mới oai.
- Không được, các quan tân khoa ngày xưa thường rất trẻ.
Các vị đỗ đạt càng nhiều thì nồi cơm của Ngạn và Dung càng đầy. Cô chỉ lo là cứ lao vào việc “khoa cử” cho các vị thì việc “khoa cử” của chính mình sẽ gặp vỏ chuối.
Học hết lớp 9, do một trường hợp ngẫu nhiên, cô được người ta phát hiện ra là có năng khiếu hội hoạ và được tuyển vào trường Mỹ thuật. Hai người xa nhau từ độ ấy. Mãi đến mấy năm sau, khi cô đã ra trường rồi, và anh cũng đã tốt nghiệp Đại học, hai người vẫn chưa có dịp gặp lại nhau. Mà gặp lại nhau làm gì nhỉ. Kỷ niệm tuổi thơ đẹp và trong trẻo thật nhưng hình như cũng ít sức kết dính có thể gắn bó người ta với nhau. Có người bảo anh đang nghiên cứu về cây sơn và đang thường nhật ở vùng trồng sơn Đông Hoá xa lắc xa lơ nào đó. Cô không quan tâm lắm chuyện đó. Cô đang rất bận rộn với cuộc sống một nghệ sĩ trẻ đầy tài năng bước vào đời. Tranh của cô được giải cao ở triển lãm Mỹ thuật toàn quốc. Một bức tranh làm xôn xao dư luận. Một tiến sĩ hội hoạ nói trong hội nghị: đây là một đóng góp cho nền mỹ thuật dân tộc. Một vài người xì xào: Cô vẽ lạ! Rất lạ! (Lạ là một từ dùng mà không bao giờ sợ sai). Một tờ tạp chí trong ngành không ngần ngại đưa ra một huyền thoại: Cô vẽ năm ngàn bức tranh. Cô vẽ từ khi còn bế em, đánh mốt. Vẽ trên giấy báo, vẽ bằng mực tím, vẽ bằng nhọ nồi, quả dành... Và các bức này cũng “lạ” lắm!
Cô ngây ngất trước vinh quang. Cuộc sống rồi sẽ còn mở cho cô một tiền đồ không ngờ. Cô tin là như thế. Giữa lúc đó thì Ngạn ở đâu lù lù đến. Chắc rằng ở cái xứ trồng sơn Đông Hoá heo hút kia, nghe tiếng tăm cô, anh chàng trở về “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Trong căn phòng ấm cúng đầy đủ tiện nghi của cô, Ngạn lộ ra vẻ vụng về đến đáng thương, vẫn những bộ quần áo “mốt” của mười năm trước, vẫn cách suy nghĩ, nói năng nhà quê xưa cũ. Ngạn đòi xem tất cả tranh của cô. Xem rất lâu, hẳn một buổi, cuối cùng thì thủ thỉ:
- Dung nên cảnh giác với tất cả những lời khen.
- Tại sao lại cảnh giác - Cô thấy trái tai.
- Bởi vì... Mình đã xem tranh của Dung. Là người hiểu Dung hơn ai hết, lo cho Dung hơn ai hết... Mình biết! Những bức tranh này chưa có gì đáng để “ngủ say trên chiến thắng”. Khi đứa trẻ lên mười tuổi làm được một bài thơ lục bát, người ta thường hay khen...
- Anh định bảo Dung là trẻ con sao.
- Không bao giờ mình dám nói thế... Mình chỉ lấy ví dụ. Nếu những bức tranh này của một người đàn ông hay một họa sĩ có tên tuổi, thì chắc chắn không ai để ý đâu. Nhưng đây là của một cô gái trẻ măng, hơn nữa lại xinh đẹp thì đích thị nó phải tuyệt tác rồi... Tất nhiên mình nói thế hơi quá - Ngạn nhe răng cười vẻ xin lỗi - Mình chỉ muốn nói thế này: giá trị là giá trị, trong Bảo tàng giữ lại cho đời sau chẳng có điều kiện chiếu cố nào đâu...
Cô ngồi bên bàn nhìn Ngạn, sững người một lúc rồi rũ ra cười. Thế nào ở đâu mà lại mọc ra một cái ông “lo xa” kiêm ông “cẩn thận” thế này. Mình chả có ý định nhận được những “ý ngọc lời vàng” như vậy.
- Sắn ở chỗ anh rẻ lắm phải không? Mấy hào một cân - Cô tàn nhẫn cắt ngang.
Ngạn ngơ ngác nhưng không phật ý. Một lát sau, anh bình thản tâm sự:
- Cây sơn mới là cây mình quan tâm. Sau mấy năm nghiên cứu mình đã chiết xuất tổng hợp được
 từ nhựa sơn một loại chất liệu đặc biệt hoàn hảo rất cần cho công nghiệp tiên tiến. Và riêng đối với Dung, nó có ích vô cùng. Mình muốn Dung được độc quyền sử dụng nó, ít ra là trong thời gian đầu. Chất liệu này sẽ làm tăng hiệu quả của tranh lên gấp bội so với kỹ thuật sơn mài xưa nay. Thú thực với Dung, suốt bao năm nghiên cứu, mình luôn mơ tưởng đến một ngày được đem tặng Dung cái chất liệu mới này. Chính nó đã góp phán quyết định cho sự thành công của mình.
Ngạn ra vườn, nơi chiếc xe đạp thồ nặng của anh vẫn dựa ở đây từ lúc mới vào. Thì ra cái vật thồ kia là thùng sơn quý mà Ngạn đem đến cho Dung.
- Tháng sau mình đi nước ngoài để báo cáo công trình. Hôm nay cũng là buổi chia tay với Dung - Ngạn đặt thùng sơn vào góc nhà rồi mỉm cười - Mình muốn Dung vẽ một bức tranh... Một bức tranh, với chất liệu này, diễn tả hình ảnh ngày xưa mình với Dung đi nhặt hạt dẻ với nhau trên đồi...
*
*    *
Tờ tạp chí ngành bắt đầu nói đến những bức tranh sơn mài của cô, đặc biệt khen về bí quyết kỹ thuật sử dụng chất liệu. Chất liệu “lên”, trông đẹp hơn hẳn các bức sơn mài bình thường. Nó như được phủ bằng một lớp màng nắng màu hổ phách lung linh quý giá. Cô bán được mấy bức cho một số khách du lịch Tây Âu. Ở đó cô vẽ cảnh làng quan họ quê cô với những người con trai khăn xếp áo the, quần ống sớ; con gái đội nón ba tầm đứng chòng ghẹo nhau bên mái cổng làng rêu phong, ngõ trúc... Nhưng cô vẫn chưa vẽ bức “Nhặt dẻ trong rừng” như lời Ngạn đề nghị. Chưa có gì rung cảm để khiến cô thể hiện cái chủ đề ấy.
Tự hào về một tài năng của quê hương, Ty Văn hoá tỉnh cô quyết định mở triển lãm “Phòng tranh Phương Dung”. Trong cái sự kiện sinh hoạt văn hoá nổi bật của tỉnh nhà ấy Cô đã gặp San - Chồng cô bây giờ. Cô hơi bất ngờ khi trông thấy San. Thường thì cô vẫn hình dung một ông thủ trưởng phải có mái tóc hoa râm, ánh mắt nghiêm trang sau mục kỉnh... Còn đằng này thì thủ trưởng gì mà lại trẻ măng. San đọc diễn văn, cắt băng khai mạc triển lãm. Cô hướng dẫn San đi xem tranh. San nhận xét, bình luận và động viên. Trong tiệc chiêu đãi, San nâng cốc chúc mừng sự thành công của tác giả. Rồi hai người nói chuyện với nhau về Nghệ thuật hội hoạ. Lêôna đờ Vanhxi, Raphaen,... rồi Gôganh rồi Picátsô... Anh khuyên cô nên làm những bức tranh có chủ đề phong cảnh, tâm hồn, phong tục Việt Nam sẽ được người nước ngoài ưa thích...
Triển lãm kết thúc, San mua cho Tỉnh mấy bức để trang trí khách sạn giao tế. Dung còn nhận được commăng làm một bức sơn dầu hoành tráng cho hội trường lớn mới hoàn thành. San mời Dung “đi thực tế” với anh một chuyến ở mấy điểm trong tỉnh. Chuyến đi vui vẻ đặc biệt. San thì đi nắm phong trào, kiểm tra tình hình và truyền đạt chỉ thị, Dung thì lấy “vốn sống”, làm phác thảo v.v... và v.v... Chặng dừng chân cuối cùng của chuyến
đi là ở Đông Hoá - nơi anh chàng Ngạn ngày nào “bám trụ” ở đây. Hai người đi giữa những đồi sơn mênh mông, San vui vẻ chỉ tay:
- Phải chú ý cây sơn. Phải có chế độ cụ thể khuyến khích nghề trồng sơn và khai thác sơn. Bên cạnh đó phải chú ý lợp lại màu xanh cho đồi. Phải trồng sắn để tăng nguồn lương thực... Phải, phải, phải... vân vân và vân vân.
Khi hai người về đến thị xã thì đã thân quen nhau đến mức có thể mời nhau đến nhà riêng ăn cơm. Những tháng ngày của San trông bề ngoài thì cực kỳ bận rộn. Nào đọc báo cáo, ký công văn, đi họp, làm long trọng viên các hội nghị... Nhưng ở gần, Dung mới thấy San còn khá nhàn rỗi. Trong khi Dung vẽ ở nhà khách, San thường đến “ám” hàng buổi, góp ý chỗ này, gợi ý chỗ kia. San kể về những ngày anh mới được “đặc cách” lên cấp lãnh đạo, các đầu ngành trong tỉnh đã thắc mắc như thế nào, đã gọi anh là trí thức học sinh, là tiểu tư sản. Anh đã chống đỡ, đã phản công, đã vượt qua được cái thời kỳ ấy như thế nào. Bây giờ thì năng lực của anh đã được bộc lộ, sức bật của tuổi trẻ và kiến thức khoa học của anh đã được thể hiện. Rõ ràng chẳng phải ngẫu nhiên mà cấp trên yêu cầu phải có lực lượng trẻ và thành phần khoa học kỹ thuật tham gia cấp lãnh đạo v.v...
Anh khuyên cô nên lấy nơi này làm “quê sáng tác”. Anh xin là Mạnh Thường Quân của nghệ thuật. Anh hy vọng có cô, bộ mặt văn hoá của tỉnh sẽ “sáng sủa” hơn. Cùng một lúc, với sự “trung gian” của anh, cô nhận được những hợp đồng béo bở. Các ty ngành, các huyện bỗng chốc cùng đều nhận thấy rằng mình không trang trí hội trường, không treo tranh nghệ thuật, tranh chủ đề truyền thống, thì thật là kém văn hoá, thật chẳng ra cái gì. Cung Văn hoá, Nhà Bảo tàng, Nhà Triển lãm, Nhà hát tỉnh... anh nọ quyết vượt anh kia để tỏ ra “tính văn hoá” của mình, không ngần ngại đặt những com măng chơi trội. Dung làm không hết việc và điều này mới thật là bất ngờ đối với một hoạ sĩ trẻ như cô: sự giàu có!
Ở cơ quan các nhà hoạ sĩ trung ương, người ta buồn làm sao khi ông hoạ sĩ kia chưa già mà đã để râu vểnh như cái ghi đông xe đạp, trong túi kè kè bên sườn chẳng có bột màu bút vẽ chi hết mà lăn lông lốc một chai cuốc lủi. Suốt ngày ông “đi thực tế”’ ở các quán nước, quán bia. Vì vậy người ta vui làm sao khi thấy cô - một hoạ sĩ trẻ - lại xin đăng ký “cắm sâu” ở “vùng quê sáng tác”. Trong các bản báo cáo, người ta nhắc đến cô như là thành tích của ngành. Cô được đưa vào ban nọ ban kia, và cũng chẳng khó khăn gì mà cô không leo lên ghế Chủ tịch đoàn nhiều hội nghị, mặc dù cái ghế chủ tịch đoàn hết hội nghị thì cũng thế thôi, nhưng đâu dễ mấy ai đã được ngồi vào đấy phút giây...
*
*    *
Cô lại áp tai vào bức tranh. Cô vẫn kiên trì đợi nghe tiếng nắng hanh reo như bọt bia tan, tiếng vỏ gai dẻ nứt lách tách và tiếng lá rơi xạc xào. Cô đợi em bé gái áo trắng trong tranh bay lên thành con bướm trắng; đợi giọng nói cất lên sau đống than hồng:
- Cho Dung hạt dẻ mới chín nữa này...
Cô ngây ngất bồi hồi. Lâu lắm cô mới lại có cảm giác như thế trước một bức tranh mới hoàn thành của mình. Phải, lâu lắm. Lâu đến hơn mười năm. Một thập kỷ. Mà này, cả cái thập kỷ vừa rồi mình làm gì nhỉ? Tại sao đến bây giờ, hôm nay, mình mới lại tìm thấy cái cảm giác này của chính mình.
- Trời ơi! Mười năm cô mới vẽ xong bức “Nhặt dẻ trong rừng”.
- Tôi bận... Bận quá...
- Bận gì mà ghê thế nhỉ?
- Bận... lấy chồng... Bận đẻ con... Ổn định cuộc sống.
- Cô vẽ cho Ngạn, đúng không?
- Trước hết là cho tôi chứ? Đó là một tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa của nó...
- Thế tất cả những cái cô làm trong mười năm qua, “không đúng nghĩa” hay sao?
- Không hẳn là như thế... Nhưng đây mới là một tác phẩm!
Dung bàng hoàng, đứng dậy, rời bức tranh, ra hành lang. Cô bước vô định. Rồi cô mở một cánh cửa cạnh đó. Phòng lạ tối om. Dung bước lò dò. Đến khi đèn bật sáng thì Dung trân trân nhìn những đồ vật quanh mình. Chiếc ghế bành bọc da. Chiếc bàn mặt kính để đầy ắp giấy má. Chiếc bút dạ đầy quyền lực vẫn để ký công văn. Những chồng báo cáo viết bằng thứ chứ ngoáy tít của một người ngại cầm bút để diễn đạt một điều gì.
Mùi khói thuốc lá lưu cữu quện với mùi giấy mốc, mùi sơn hộp dấu, mùi mồ hôi trên áo mắc, làm Dung lộn mửa. Lạ sao tự nhiên hôm nay Dung lại nhận ra cái mùi mồ hôi khó chịu kia. Tưởng mười năm cô đã quá quen nó rồi...
- Trời ơi! Số phận...
Đừng dùng chữ số phận!... Tự cô hoàn toàn quyết định bước đi của cuộc đời cô kia mà.
- Làm sao tôi biết được lúc đó là lúc tôi bắt đầu tự làm khổ đời mình.
- Người con gái này hơn người con gái kia là ở chỗ đó. Năng lực lựa chọn. Cô hãy thú thật là cô đă thua kém.
- Làm sao tôi có thể biết được là tôi nhầm.
- Trong văn học người ta đã chẳng xây dựng hàng ngàn nhân vật chính diện trung thực, cao cả, với cái vỏ bề ngoài thường là không đẹp trai lắm, vụng về v.v... Còn các nhân vật phản diện thì cao to béo mượt, sắc sảo, có duyên, khôn ngoan... là gì. Áp dụng vào trường hợp của cô đâu có sai. Ngạn là kỹ sư hẩm hiu ở xứ trồng sơn. Còn San thì cũng là kỹ sư, nhưng đã leo lên ghế cao hơn.
- Trong văn học chưa ai dám đụng đến cái vụ “ghế cao hơn” này.
- Trước kia thì không. Bởi vì cuộc sống lúc đó chưa có mẫu. Nhưng bây giờ có mẫu rồi.
- Tôi thì tôi vẫn nghĩ rằng đừng có dại gì mà lấy cái thước đo của văn học đem đo cuộc sống... cuộc sống và văn học còn có nhiều khoảng cách.
- Chính vì cái sự không tin ấy nên hậu quả mới ụp xuống đầu cô. Cô còn trách nỗi gì. Sở dĩ đời còn một phần “bất công” như cô vừa nói cũng tại đời còn đầy rẫy những người nông cạn như cô. Đã lựa chọn nhầm lại còn không dám dũng cảm trình bày chân lý. Sao? Cô có dám đến gặp những đồng chí lãnh đạo cao hơn để nói thẳng rằng: Các anh cũng đã lựa chọn nhầm! Những người như San không xứng đáng là đại biểu cho thế hệ trẻ, không đại diện cho đội ngũ trí thức mới được... Các anh mới nhìn thấy cái vỏ bề ngoài “đạt tiêu chuẩn” của San, nhưng không nhìn thấy thực chất bên trong. Tôi là vợ anh ấy mười năm trời, tôi biết lắm.
- Không, không bao giờ tôi nói thế. Vì tôi là người mẹ của một đứa con.. Vì tôi... cũng không phải là người thường được ca ngợi trong các truyện “Gương sáng soi chung”.
- Thế nên đời mới khó phân biệt vàng thau...
*
*    *
Cô mở cuốn vựng tập mười năm tranh của mình, thần mặt. Những bức đồ hoạ được vẽ dưới sự áp đặt của giá cả hời mà San đã dắt mối. Quả tình là cô đã thu được kha khá. Cô đã sắm sửa đủ tiện nghi; đã sống và nuôi con đàng hoàng. Và được vẽ những bức tranh này cũng là một vinh dự. Nhưng cái chính là cô đã sa vào đấy như chuột sa chĩnh gạo. Được sa trong chĩnh gạo thì sướng quá còn đòi hỏi gì nữa? Không. Cô không đòi hỏi.
Cô chỉ ân hận là thành của hũ gạo đã cao quá, kín quá, che hết không cho cô nhìn thấy màu xanh vũ trụ cao vời của nghệ thuật...
Cô chẳng trách ai... Không, Không trách ai hết. Cô chỉ trách cô trước. Sau nữa là trách San, chồng cô. Vậy là phạm vi trách móc chỉ ở trong nội bộ gia đình, không làm rầy rà đến ai cả, không ảnh hưởng đến xã hội. Và do đó cũng không sợ sai sót gì.
Trang cuối của cuốn vựng tập trình bày hình ảnh một người thanh niên đứng giữa cánh đồng lúa xanh. Anh ta đeo kính trắng, sự thông minh mực thước trong vầng trán, nụ cười đằm thắm trên đôi môi. Trông anh ta thật đáng yêu. Tất cả cảm xúc của cô đã lần mối theo những hồi ức của hắn (phải, cô gọi là hắn đấy). Cô đã miêu tả quá đẹp cái thần tượng rỗng tuếch kia! Miêu tả một cách run rẩy say mê. Cô đã ngồi há hốc mồm ra để nghe, để mường tượng, cấu trúc nên một hình tượng tuổi trẻ đem khoa học mới về với ruộng đồng.
Trong khi ấy thì thực chất như thế nào. Hắn chỉ có sự láu cá. Sự láu cá không thấy có trong giáo trình một trường nào dậy. Là kỹ sư nông nghiệp chỉ đạo điểm, hắn đã phất lên những phong trào có hại cho đồng quê.
Nhưng khi mọi người vỡ lẽ ra như vậy thì chàng kỹ sư đã nhanh chân theo “phong trào” lên ghế trưởng phòng, phó ty rồi. Ở đâu mà chẳng cần bổ sung lực lượng trẻ, thành phần khoa học kỹ thuật vào hàng ngũ lãnh đạo. Công bằng mà nói San cũng có một số ưu điểm so với những người cùng lứa. Tư thế đĩnh đạc. Ăn nói lưu loát. Tác phong nhanh nhẹn, dễ chiếm được cảm tình của người xung quanh. Cô chả muốn nói xấu chồng cô tý nào. Nếu không có một cái gì đấy thì làm sao anh bước được lên hàng đầu so với bạn bè. Những chàng kỹ sư đồng lứa mải lo mốt quần áo mới, lo để “tóc đúng mốt thời thượng”, lo chinh phục các cô gái, xoay xở có tiền v.v... thì anh chỉ lo về sự tiến bộ trong công tác. Anh bước được vào một quỹ đạo khác. Và anh quay trong đó. Anh đã ăn giải cạn khi trong Uỷ ban cần có uỷ viên trẻ, xuất thân là trí thức. Anh thành có khả năng chỉ đạo, quản lý, làm thủ trưởng... sau hết thì anh thành một người có vợ là hoạ sĩ nổi tiếng. Một hoạ sĩ giàu. Gia đình anh đặc trí thức. Chồng kỹ sư, vợ văn nghệ sĩ. Anh chăm sóc vợ con, yêu thương vợ con... Anh cũng không có những thói xấu đàn ông: gia trưởng, rượu chè, vũ phu...
Anh như thế, như thế... Mẫu mực. Nhưng làm sao mà cô vẫn cứ cảm thấy chẳng yên tâm, thấy đau khổ, lo buồn...
- Anh Ngạn ơi! Sao anh không đến đánh thức em...
- Chẳng phải là em đã cười rũ ra khi nghe những lời anh nói.
- Nhưng ở nước ngoài về, anh cư trú ở đâu mới được chứ... Suốt mười năm không thấy mặt anh. Anh chẳng thèm đem đến cho em một thùng sơn thứ hai nữa.
- Anh không thể, không thể. Em đã có chồng và đang trong hạnh phúc.
- Em chỉ hạnh phúc khi sáng tạo.
- Nhưng anh cũng còn bận lo hạnh phúc của chính anh chứ. Chả lẽ em vui thú chồng con, còn anh cứ phải đau khổ lượn quanh “mối tình đầu” của tuổi thơ ư...
- À, anh cũng tầm thường vậy thôi.
- Như thế cả.
- Nhưng anh ở đâu, ở đâu mới được chứ. Không thấy anh lai vãng cả tới vùng sơn Đông Hoá nữa.
- Làm gì còn vùng sơn Đông Hoá nữa mà anh tới. Dân đã phá hết sơn để trồng sắn rồi. Sắn là thứ ăn ngay được mà. “Ăn với chồng nửa bữa, ngủ với chồng nửa đêm” câu ca về sự vất vả đi làm sớm mai tối khuya của dân vùng sơn đấy, nhưng cái giá thu mua đâu có nuôi nổi người ta?...
- Vậy là em không còn sơn để vẽ nữa sao?
- Cái đó em hỏi chồng em...
Tiếng còi xe com-măng-ca trở về ngoài sân làm Dung sực tỉnh. Cô vội vã ngả bức tranh “Nhặt dẻ trong rừng”, bọc giấy xung quanh. Rồi cô gập một bộ quần áo, nhét vào túi du lịch ít đồ đạc lặt vặt, dùng trong vài ngày.
San đứng sững trước cửa báo tin:
- Em. Anh đã đi họp về.
- Vâng. Chào anh.
- Ô kìa, em sắp đi đâu vậy? - San ngạc nhiên.
- Em ra Hà Nội có chút việc.
- Em đến chết cũng không chừa cái thói quyết định đột ngột, không báo trước với ai cái gì. Hình như sáng nay, lúc anh đi họp, em chưa có ý định này.
- Thì em đem tranh ra gửi triển lãm rồi lại về ngay chứ có đi đâu.
- Ít ra thì em cũng phải báo trước để anh sắp xếp ô tô.
- Không cần. Em đi tàu.
San lật mảnh giấy bọc bức tranh “Con bướm nhỏ trong rừng dẻ”, ngắm nghía:
- Em vẽ bức này không có khí thế gì cả.
- Thế à...
- Hơi ít tính tư tưởng. Khó mà được giải. Mà này hình như anh có thấy đài báo nói là có triển lãm triển liếc gì đâu nhỉ.
- Chỉ cần cho một người xem thì cũng coi như là triển lãm rồi chứ gì, có được không? - Dung cười khó hiểu.
- Tranh của em nói chung thì...
Dung giật lấy bức hoạ bọc kín lại như cũ. Cô bước ra cửa. Mưa bay lất phất, gió ào ào. Cô dựng cổ áo măng tô che những hạt mưa nhỏ xíu lạnh buốt. Tay cô cầm bức tranh, và tay kia xách chiếc túi nhỏ...
Mão Điền - Thuận Thành 1982.



Không thể khác
Đ
an đi trước, vai vác cuốc, tay xách khau. Thằng Phong đội nón xoè như cái nấm, lũn cũn theo sau. Bờ cỏ dài tít tắp, những ngọn cỏ mùa đông xanh sắt lại, và ẩn nấp dưới đó tiếng dế gáy ran. Phong nghiêng ngó. Một chú dế thò chiếc đầu nâu bóng, rung rung râu nghiêng ngó lại Phong. Phong lao tới. Con dế vụt biến mất.
- Đi mau lên con - Đan gọi.
Phong lũn cũn chạy lên. Tiếng dế vẫn gáy ran suốt chiều dài bờ cỏ. Phong bước không dứt khỏi tiếng dế.
- Mau lên không chốc chết nắng con - Đan lại giục.
Hồ thùng đấu ven đê, nước đã cạn quá nửa. Đan vất vả lắm mới làm được vùng tát. Khơi bao nhiêu ngòi mới dẫn được tới mảnh ruộng khoai tây nhận khoán.
- Con đứng choãi chân thế này này, tay cầm dây khau thế này này - Đan hướng dẫn.
- Thế múc tay nào, đổ tay nào? Tát khau giai hai người kéo khó mẹ nhỉ.
Đan làm mẫu động tác mấy lần cho Phong ngắm.
- Nào bắt đầu... Đưa tay trái lên, trùng dây tay phải xuống, vục nước... kéo.
Đôi tay Phong vụng dại như con rối. Nó chẳng biết vục mà cũng chẳng biết kéo. Chiếc gầu nằm ngửa chềnh ềnh trên mặt nước.
- Khó quá mẹ ơi.
- Cố lên con... Đấy vục được rồi... kéo lên.
- Nặng quá, nặng quá mẹ ơi.
- Đổ vơi nước đi cho nhẹ bớt. Con giai ngoan của mẹ giỏi lắm... nào hai ba...
Khau nước lên được lưng chừng, Phong mắm môi mắm lợi, nhưng chưa kịp đổ thì nó đã níu Phong ngã sấp xuống.
- Ối giời - Đan buông khau chạy vội lại cuống quít - có đau không con.
- Đau mẹ ạ...
Đan phủi đất và xoa khắp người Phong:
- Khổ thân con tôi quá.
Nhưng Phong đã nhon nhỏn:
- Có con dế cụ gại càng ở vũng tát hay sao ấy.
Nước mắt Đan rơm rớm. Ruộng khoai tây đã khô kiệt nước. Một tháng rồi không mưa. Mương máng chẳng đâu ra với đâu, không có nước tưới, khoai tây có cơ chết héo cả. Khau giai không thể tát một mình. Nhà chỉ có hai mẹ con, thằng bé mới tám tuổi, đành phải “lôi” nó ra đồng thế này.
- Bây giờ tát “kiểu mới” - Đan bỗng nảy ra sáng kiến - Con cứ cầm dây khau và đứng im, giống như một cái cọc ấy, để một mình mẹ kéo dây bên này thôi.
Thằng Phong nhe răng sún cười vì được mẹ ví như cái cọc.
- Như cái cọc hả mẹ - Nó hỏi lại và vẫn khoái trí vì hình ảnh ấy.
- Ừ, như cái cọc để mẹ “buộc” đầu dây khau vào - Đan cũng cười.
Tì... tùm... Khau nước chỉ được kéo một bên lệch lạc, xiêu vẹo, nhưng rồi cũng đổ được lên vũng.
- A được, rồi! - Đan reo...
Tì... tùm... khau nước thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư... Thằng Phong mím môi, nắm chặt dây đứng im như pho tượng.
- Thế là con giai mẹ “biết” tát nước rồi đấy - Đan dịu dàng - “Lớn tướng” rồi còn gì. Con nhà người khác biết chăn trâu rồi đấy - Đan chuyện trò cười vui để lôi con vào câu chuyện cho nó quên đi. Bởi nếu không chỉ đứng im như cái cọc, nó cũng có thể mỏi, chán và bỏ khau đấy.
Dòng nước hiếm hoi bắt đầu sấm vào ngòi dẫn. Đất khô nẻ, nước đi đến đâu, tan sèo và biến mất. Mà ngòi dẫn thì qua ba bốn mảnh ruộng.
- Lâu lắm bố không về mẹ nhỉ?
- Bố bận công việc về thế nào được. - Giọng Đan vẫn dịu dàng. Nhưng nhắc đến chuyện ấy Đan lại thấy tức đầy lên cổ! Tức mà vẫn phải che giấu đứa con.
Nắng buổi sớm lên hồng rực. Bóng hai mẹ con
đổ dài trên bờ cỏ. Tiếng nước đổ uể oải gióng một tì... tùm... tì... tùm.
*
*    *
- Mẹ ơi, chú Kiểm mang máy bơm ra bơm nước mẹ kìa.
Đan ngẩng lên, Kiểm và vợ đang hí húi khênh chiếc Ko-le 6 mã lực, còn mới tinh màu sơn, từ trên xe cải tiến xuống. Kiểm kê máy, Diễn - vợ Kiểm, bắc vòi. Chỉ một loáng, tiếng máy đã nổ giòn tan, nước phun lên trắng xoá
- Máy phun thế kia thì chỉ một lúc ruộng nhà chú Kiểm đã đầy phè mẹ nhỉ.
- Ôi dào - Đan gạt đi, bông đùa - Phành phạch, phành phạch, một tý nữa chết tắc ơ đấy mà!
- Chết thế nào được. Máy mới tinh chú ấy vừa mua ở Sài Gòn ra lị... Mẹ ơi, nghỉ tay cho con ra xem máy nước đã.
- Có gì mà xem con. Cái máy “vét đĩa” ấy làm cái trò gì - Đan vẫn gạt đi.
Vợ chồng Kiểm lững thững đi lại chỗ Đan.
- Trời ơi, làm tội thằng bé thế kia - Cả hai cùng kêu lên - Nó tát thế nào được mà lôi ra đồng cho chết nắng.
Đan ngẩng lên cười gượng.
- Nó tát được đấy.
Tì... tùm... Những khau nước chỉ được kéo một bên vẫn chuệnh choạng đổ lên vùng. Diễn cười ngặt nghẽo:
- Chả khoai khoẳm thì đừng Phong ạ. Vứt khau đấy mà về.
- Cháu phải giúp mẹ cháu chứ. Không đến mùa lấy khoai đâu mà nướng - Đan ngọt ngào.
- Thằng bé nhà cậu ngoan thật đấy. Chứ thằng cu Ty nhà tớ ấy à... Bằng tuổi thằng Phong đấy, cùng đẻ một năm, chiều vẫn còn bắt mẹ cõng đi rửa chân. Bữa ăn còn phải bưng bát gỡ cá xé thịt cho nó...
- Thôi em lên quán đá nghỉ không chết nắng đi - Kiểm giục vợ - Bao giờ máy xong anh gọi xuống khênh.
Diễn nhớ ra:
- Ừ nhỉ, cứ lang thang ngoài đồng thế này, nắng vỡ đầu đêm lại ngạt mũi cho mà xem... Mình lên quán Đan nhé... Cô đi, Phong nhé, cháu cô ngoan lắm... Biết tát nước giúp mẹ rồi đấy.
Diễn cúi xuống đầm rửa tay, buông chùng ống quần sa tanh bóng nhoáng, choả đi choả lại đôi dép lê. Chân Diễn gót đỏ như son. Những ngón tay nuột nà. Dáng điệu Diễn đủng đỉnh nhàn nhã. Eo lưng tròn căng bệ vệ, cổ béo trắng có ngấn. Xưa kia chưa lấy Kiểm, Diễn gầy nhom, tóc đỏ quạch khô xác. Diễn với Đan là bạn cùng ngõ. Ngày ấy Đan như mặt trăng rằm, đầy đặn, nở nang xinh đẹp. Còn Diễn, chả cắn gót. Vậy mà bây giờ hai người “hoán vị” cho nhau. Những ngón tay, bàn chân Đan nứt nẻ, thô rám vì dầm bùn. Cổ tay khô khẳng. Cả cái dáng điệu tất bật vất vả của Diễn xưa kia, giờ Đan cũng “thừa hưởng” nguyên vẹn.
Diễn đi rồi, Kiểm lặng lẽ đến bên Phong.
- Thôi cô Đan đừng bắt cháu tát nữa.
- Để tôi tập cho cháu làm dần cho quen đi.
- Quen cái gì mà quen - Kiểm giằng lấy dây khau.
- Cả hai mẹ con về đi - Lát nữa “máy” ruộng của tôi xong tôi chuyển qua máy giúp cô.
- Không - Giọng Đan cương quyết - Phiền anh làm gì. Nhờ anh được lần này, còn các lần sau thì sao. Tôi tát cũng chỉ một chút nữa là xong.
- Tát thế này cả ngày chưa chắc nước đã tới ruộng khoai, một chút mà được...! Phong ra kia mà xem máy nước Phong ạ - Kiểm chỉ tay rủ nó.
- Nhớ, mẹ nhớ - Phong mặc cả.
- Con hư lắm, không giúp mẹ gì cả - Giọng Đan nghèn nghẹn.
- Cô Đan buồn cười nhỉ!
Đan ngẩng lên dứt khoat:
- Không. Anh máy của anh cho xong đi mà về không Diễn nó đợi - Đan giằng lại dây khau.
- Cái gì, cái gì đấy - Từ trên quán đá giọng Diễn lanh lảnh vọng xuống. Rồi bóng Diễn đỏng đảnh tha đôi dép lê trở lại.
- Cái gì - Diễn hách dịch hỏi trống không.
- Trông thằng bé tát nước tội quá. Anh bảo nó về để chốc nữa anh “máy” hộ, cô Đan cứ không chịu.
- Làm gì mà phải “xin công xin đám” không đắt thế - Diễn nguýt.
- Ừ... chậc...
Diễn bĩu môi:
- Chồng người ta là đại uý. Anh là anh dân cày chứ là cái thá gì mà dám thương hại vợ con người ta...
Đan đứng lặng người chỉ cười nhạt, không nói một lời...
*
*    *
Đan bước qua chiếc cổng tre. Con đường vào nhà đầy cỏ đắng dậy gãy. Đôi ngỗng trắng vẫn cứ ngẩn ngơ ở bờ ao.
- Mẹ ơi - Đan gọi. Tiếng Đan vang trong không
gian êm ấm của ngôi nhà tuổi thơ. Chiếc sân nhỏ nắng hanh bay ràn rạt như phơi lụa. Những tấm lụa vàng chói khiếp quá. Mẹ ... ơ... i - Đan lắng nghe tiếng gọi của
 chính mình.
“Đa... an... n” tiếng thốt nhẹ như gió thoảng trong bóng lá khu vườn đang độ vào thu ngày ấy. Hai người bước trên những chiếc lá vàng khô phủ ngập cỏ. Ngữ đi một đôi giày lính da lộn, đế đóng sắt, giẫm đến đâu lá vụn tan ra đến đây. Còn Đan, chân trần, bàn chân nhẹ như sợ làm nhàu mất những chiếc lá mùa thu quá đẹp. Bàn chân giống như miếng tuyết trắng trên thảm lá vàng.
Áo Đan mặc hôm ấy cũng vô tình màu vàng.
Hai người ngồi xuống. Không biết chỗ nào là áo, chỗ nào là lá nữa. Mùa thu lạnh mát, trinh trắng trên cánh tay tuổi 17 để trần của Đan.
“Đ... an... an”. Hàm răng Ngữ trắng muốt thỉnh thoảng lại nhe cười như trẻ thơ. Ngữ chả biết nói chuyện gì cả. Đan phải gợi. Rồi Ngữ nói về những chiếc cầu phao, những hầm, những kho, cầu, cống, bến cảng, những công trình của quân sự v.v... mà đơn vị anh tham gia xây dựng. Bom đạn Mỹ giội vào những nơi đó như thế nào...
- Có sợ không anh?
Ngữ ngớ ra một lúc. Rồi lại nhe răng cười:
- Bom khiếp lắm. Tất cả bị nó xới lên như đường cày. Chịu bom nhiều quá, đâm quen, dạn. Nói thực ra nếu cứ sợ thì chả làm được việc gì. Đến đi nấu bữa cơm mà ăn chưa chắc đã được, huống hồ là bắc cầu làm bến nữa. Cầu ngoài mặt trận với máy bay Mỹ là gì em có biết không?
Đến lượt Đan lại ngớ ra:
- Là gì?
- Là một cái que bôi mật. Mà máy bay Mỹ thì là đàn ruồi. Ruồi thấy mật thì chết nó cũng lăn xả vào.
Cả hai cùng cười khanh khách.
- Tại sao đi bộ đội, anh không đi “đánh nhau” mà lại làm những việc đó.
- Anh là lính công binh mà. Học nghề “kỹ sư
công trình” ở trường đại học ra một cái là anh vào thẳng công binh.
Hàm răng Đan trắng nõn, bằng chằn chặn, đẹp như cánh hoa nhài. Môi đỏ hồng. Ngữ cứ cúi sát nhìn Đan cười, Đan hứ một tiếng. Cuộng lá vàng còn chút nhựa chan chát dinh dính trên kẽ răng Đan.
- Ngày mai hết phép, Đan ở nhà, anh đi nhé. Lần này anh sẽ vào sâu hơn. Kỳ nghỉ sau về anh sẽ bảo mẹ anh đem giầu cau đến nhà Đan.
- Ứ - Đan lắc vai phụng phịu.
- Làm sao?
- Giầu cau... xấu hổ lắm.
- Nhưng không có cái vật “biểu tượng” ấy thì làm sao tuyên bố được cho mọi người biết là chúng mình sẽ lấy nhau.
- Mặc kệ.
- Lần sau về, anh sẽ cho em mảnh vải dù trắng làm khăn. Trong Trường Sơn dù pháo sáng vương đầy như mạng nhện.
- Ừ nhé, vải dù làm khăn nhẹ lắm. Sao lần này không đem về...
- Thì lần này, lúc về anh đã “có” em đâu. Về nhà hàng tháng rồi mới được “gặp” em.
- Thế giờ mới “gặp” à? Từ trước không bao giờ nghĩ đến em sao?
- Mấy năm trước tóc em còn như đuôi gà rẫu trên vai, chỉ thiếu nước ngồi đánh mốt thì anh “nghĩ” tới làm gì.
- Điêu. Mấy năm trước người ta kém gì mình. Mình học lớp 10 người ta học lớp 7, lại bảo người ta còn đánh mốt. Anh thì cũng thế chứ gì, vừa mới ngày nào vẫn bắc thang trèo mái bếp bắt trộm chim sẻ. Mới đi bộ đội mấy năm tưởng đã “oai” lắm.
- Không oai nhưng mình đứng cũng chỉ đến cằm người ta.
- Nào đo xem nào.
Đan đứng dậy kiễng chân trên những chiếc lá vàng. Bàn tay vạt bừa từ chỏm đầu mình chếch lên chỏm đầu Ngữ, tuyên bố: bằng nhau!...
Ngữ đi rồi, với lời hẹn là lần sau về sẽ đem giầu cau đến nhà Đan. Nhưng Ngữ ở xa quá, tận mặt trận miền Nam bảy năm liền chẳng thấy Ngữ về. Và cũng chẳng có tin tức. Ngày ấy những người lính đi B mấy ai có được tin tức.
Bao giờ thì Ngữ về, không biết. Chẳng bao giờ biết. Trường Sơn dài lắm, Trung Bộ, Nam Bộ rộng lớn mênh mông lắm. Từ cô bé 17, Đan thành cô gái 24 tuổi. Bảy năm với đời một cô gái dài lắm, sôi động lắm. Bông hoa đang độ nở, bao giờ cũng rực rỡ chói ngời như muốn cháy lên. Một phút giây của nó tương đương với cả tháng, cả năm đời một ngọn cỏ. Một phút giây của nó không thể trôi qua bình lặng.
Bảy mùa lá vàng rơi trong vườn. Chiếc áo vàng ngày ấy đã phai thành màu trắng bợt, sờn rách và không sao xỏ tay vào được nửa. Đan đã lớn hơn, cao hơn, mập ra. Nếu đứng so, Đan giờ không kém gì Ngữ nữa, chẳng phải kiễng chân lên làm gì.
Mỗi năm mấy đợt tuyển quân. Những cậu bé choai choai vừa mới ngày nào còn đá bóng bằng quả bưởi mà giờ cũng đã lần lượt được các cô bé tuổi như Đan
bảy năm về trước đưa tiễn lên tận huyện, và tặng những chiếc khăn thêu.
Đan qua đấy, chúng ngồi trên ô tô vẫy: “Chị Đan ơi, ở nhà, chúng em đi đây”.
- Đi khoẻ và nhiều may mắn các em nhé - Giọng Đan âu yếm.
Những cậu bé ấy đi rồi và cũng chẳng ai có tin về cả. Mấy tháng một lần báo lại đăng tin chiến thắng mới. Nhưng Ngữ vẫn biệt tăm.
Bà mẹ Đan xem chừng mỗi năm một yếu hơn, mặc dù bà vẫn là lao động chính của hợp tác. Ông Tuy - bố Đan làm cán bộ trên huyện chủ nhật mới thấy đảo về. Còn suốt đời chỉ thấy lo mở hết “chiến dịch đông xuân” này với đợt “đồng khởi tiến công vụ mùa” khác. Việc nhà ông không biết một tí gì. Một buổi kia, chắc là vừa kết thúc thắng lợi một chiến dịch nào đó, ông vui vẻ về nhà, nhâm nhi hớp rượu giữa bữa ăn.
- Ông ạ - Bà mẹ nói - Bà cụ Kiếm bắn tin muốn xin cái Đan nhà ta cho thằng Kiểm nhà bà ấy. Ông thấy thế nào?
- Hừ - Ông bố ậm ừ chẳng rõ rệt một ý gì.
- Anh Kiểm nhà con một, được miễn nghĩa vụ quân sự. Nhà ấy một mẹ một con đầm ấm lắm. Kiểm nó cũng khoẻ mạnh, xinh trai, tháo vát. Thằng ấy làm đội phó, tính khí nhã nhặn, làm ăn đàng hoàng, bà con quý mến lắm!
- Hừ - Ông bố lại hắng giọng.
- Kiểm nó để ý con Đan nhà ta từ lâu rồi. Tôi biết. Nó đối với tôi có cái gì e dè khép nép lắm. Mà nó giỏi chứ ông. Một tay nó làm nên nhà ngói sân gạch đấy. Chịu thương chịu khó. Loại đàn ông ấy là thương vợ quý con phải biết. Tôi trông nó rất ưa... ông thấy thế nào...
- Hừ...
- Hừ cái gì. Ưng hay không thì bảo để giả nhời người ta, chứ cứ hừ hừ ai biết ra làm sao - Bà Đan phát cáu.
- Thì bà hỏi con Đan ấy chứ hỏi gì tôi - Ông Tuy cũng cáu lại.
- Nó trẻ ranh biết cái gi - Bà Đan quay sang con gái.
- Hãy khoan mẹ... Con chưa muốn - cổ Đan tắc nghẹn.
- Khoan đến bao giờ hả con. Đàn bà có lứa có thì. Mấy đứa cùng tuổi với mày giờ đã có con ngành ngãnh trên tay rồi...
- Đi đâu mà vội. Mẹ vừa bảo con là còn trẻ ranh mà - Đan đùa nhưng miệng cười gượng gạo như mếu.
Một tuần sau, không hiểu sao vô tình mà trong buổi chuyển thóc lên kho, Kiểm lại cùng với Đan đẩy chung một xe cải tiến. Kiểm xoay trần ra, bắp thịt nổi cuồn cuộn cầm càng kéo xe. Xe chạy lồng lên như có động cơ. Chả cần phải Đan mó tay vào. Đan cứ định cúi xuống đẩy thì cái xe đã lăn tít ra xa rồi. Thành thử Đan đi không.
Đến ngã ba, Đan gặp xe của Diễn đẩy chung với một cậu choai choai khác. Cậu giai hoi kia cầm càng không chịu kéo, Diễn vừa đi vừa mắng nhiếc:
- Đồ mặt mẹt, lười chẩy thây ra... Tao là cái tội cái nợ với mày đấy.
Mồ hôi ướt đầm trên vầng trán dô, đôi má lưỡng quyền cao, trông Diễn thật thảm hại. Quần thì quần thâm đất cứng queo, áo nhuộm nâu dày như mo. Thấy Đan đi đủng đỉnh chả khác dạo chơi, Diễn giãy nảy:           
- Số con Đan sướng chửa kìa. Tao như mày tao ngồi lên xe cho anh Kiểm kéo luôn thể.
Kiểm quay lại nhe răng cười thật thà:
- Thật đấy! Đan ngồi lên xe cho khỏi mỏi chân. Tôi kéo được mà.
- Không. Ai lại thế.
- Đan cứ ngồi đi. Đây lên huyện xa lắm - Kiểm năn nỉ rất tội.
- Anh Kiểm buồn cười thật đấy. Đi xe thóc mà lại ngồi vắt vẻo để anh kéo thì còn ra thế nào nữa - Đan cương quyết. Lúc ấy Kiểm mới thôi.
Lúc chuyển thóc xuống cân, cũng chỉ mình Kiểm vác từng bao nửa tạ trên vai. Đan cứ sắp mó vào là Kiểm lại tranh lấy.
- Đan vào chỗ tán bàng kia không nắng to đấy - Kiểm khẩn khoản.
Trong khi đó thì mình Kiểm xoay trần giữa trời chang chang với năm tạ thóc bốc lên bốc xuống.
Diễn ì ạch đến nơi thì xe Kiểm đã bốc xong.
- Anh Kiểm! - Diễn gọi giọng hách dịch - Bốc hộ em mí.
Kiểm lại phải lăn lưng vào bốc giúp Diễn. Và mắt thỉnh thoảng nhìn trộm sang chỗ tán bàng.
Đan ngồi ngắm hai người khênh thóc. Diễn mệt thì mệt nhưng được Kiểm làm bên cạnh, nên ríu rít như chim. Vì một cớ rất nhỏ nào đấy, thỉnh thoảng Diễn lại đấm thùm thụp lên đôi vai trần của Kiểm. Kiểm gắt: “Làm cái gì thế” và lại nhìn trộm sang Đan.
Đan quay đi mỉm cười. Thoát tội khênh thóc hộ Diễn, Kiểm chạy vội lại chỗ Đan. Nhưng Diễn đâu buông tha, Diễn chạy đến:
- Chuyến về, anh Kiểm phải chở em với cái Đan trên thùng xe đấy. Hai đứa nhẹ lắm mà. Một tạ là cùng. Lúc nãy anh kéo mấy tạ thóc còn được.
Diễn nhảy tót lên xe, tay kéo theo Đan, Đan chằn lại. Nhưng Đan cũng không muốn Kiểm chở Diễn một mình. Trông điệu Diễn ngồi “vểnh râu” có cái gì ghét quá.
- Để em kéo xe không về cho. Anh Kiểm có vào phố huyện, mua gì thì mua - Đan bảo, và nắm lại càng xe hất Diễn xuống.
- A con này ghen rồi - Diễn cười chu chéo.
Tai Kiểm ửng đỏ, mặt bừng cháy sự thẹn thùng sung sướng.
- Con này chưa đâu vào với đâu đã ghen chúng mày ạ - Diễn vẫn bô bô với đám bạn.
Đan quát:
- Câm mồm.
Lòng Đan một mớ tơ vò khó tả - Đan nhấc càng xe lên bước đi lầm lũi. Kiểm luýnh quýnh chạy theo:
- Để tôi kéo cho Đan.
- Anh này buồn cười nhỉ - Đan gắt.
Kiểm sững người ra, mặt ngây thộn trông thật
tội nghiệp.
- Đi cùng với em, em nói câu này anh Kiểm - Giọng Đan chợt dịu dàng.
Kiểm sung sướng như đứa trẻ con vụng dại bước theo mẹ đi chợ.
- Em mắng cái Diễn thế anh có giận không?
- Không - Giọng Kiểm run không thành tiếng.
- Em rất quý anh, anh Kiểm ạ. Em được biết mẹ anh đang nhờ người manh mối em cho anh. Em cám ơn anh. Em không muốn anh phải khổ vì theo đuổi. Em muốn nói thẳng, tính em táo tợn anh thông cảm. Em có người yêu rồi... Em không thể... Tha thứ cho em anh Kiểm nhé.. Thôi anh về sau, để em về trước.
Đan cầm càng xe chạy vụt lên như đi trốn. Không ngoái cổ lại. Không cả thở nữa. Mãi một đoạn xa, quay nhìn vẫn thấy Kiểm đứng như trời trồng giữa đường...
*
*   
*
Đan bước vào nhà. Ông Tuy bố Đan đang lúi húi với những tập báo cũ đầy bụi chất như núi trên giá sách.
- Mẹ con đâu hả bố?
- Mẹ mày với thằng Lẫm ra đồng làm gì đó.
Ông Tuy xếp tập báo, lắc đầu: “Thằng Lẫm tệ quá, lại ăn cắp báo cũ của tao hay sao ấy. Tìm mãi không thấy số báo có bài tao đang cần. Mày về tìm hộ xem bên mày còn tờ Nông nghiệp số 1325 cách đây bốn năm có bài nghị luận nói về công tác quản lý nghề phụ ở hợp tác xã nông nghiệp. Tao đang cần cái chuyên đề ấy”.
Đan bật cười:
- Số báo cách đây những bốn năm thì làm sao mà còn được.
- Thằng Lẫm đáng đánh chết. Thỉnh thoảng lại ăn cắp một xấp báo cũ bán lây tiền mua thuốc lá hút trộm.
- Báo cũ giờ đắt lắm mà. Mười mấy đồng một cân.
- Một trăm đồng cũng không được bán - Ông Tuy quát - Báo tao giữ - làm tài liệu từ năm Năm Tư đến giờ, bản thân tao không làm suy suyển tờ nào, thế mà con với cái, toàn một đồ phá hoại.
- Bố cần gì vào thư viện có đủ, làm gì phải lưu nhiều quá thế kia.
- Mày thì cũng giống thằng Lẫm đấy - Ông Tuy trừng mắt...
Đan ngồi xuống cánh võng. Guốc võng đã nhẵn mòn đung đưa. Bụi từ chồng báo cũ bay ra làm Đan hắt hơi. Ông Tuy vẫn nâng niu từng xấp báo ố vàng của ông.
- Lâu lắm không thấy bố thằng Phong về chơi nhỉ - Ông nói bâng quơ.
Đan ngồi nhỏm dậy, bắt nổ như xăng gặp lửa.
- Con cũng định sang nói với bố chuyện ấy đây. Con bực quá đi mất. Đến nửa năm nay không thấy anh ấy về. Bảo thời chiến đi B thì đã đành. Con định mấy hôm nữa đạp xe đến đơn vị anh ấy xem thế nào. Bố sang trông nhà, trông thằng Phong hộ con với... Con đi mấy hôm...
- Được rồi, tao sang trông cho. Nhưng có việc gì gấp không mà phải cất công đi. Viết thư nhắn nó về có hơn không?
- Viết rồi nhưng nào anh ấy có về. Anh ấy bảo còn bận làm cống, làm cầu gì đấy. Con điên tiết lắm rồi. Hai mẹ con con ở nhà thui thủi bao nhiêu năm nay. Việc gì cũng đến tay, sức con có phải xương đồng da sắt đâu mà chịu mãi thế này được. Năm nay nhận khoán mấy sào, một mình con bơi ra không hết việc. Người ta đi cấy thì chồng nhổ mạ đem đến tận đầu bờ cho, đi gặt thì chồng cắt vợ lượm, chở về thì chồng kéo càng, vợ đẩy xe. Lúa về nhà, vợ chồng cũng đập, hai néo một loáng là xong. Đằng này một mình con kiêm tất, mọc mười tay ra mà làm. Sáng đi nhổ mạ, chiều đi cấy. Vụ gặt vừa rồi nghĩ lắm lúc ứa nước mắt ra. Đập lúa một mình đến tận hai giờ sáng không xong. Xúc được thóc vào nhà thì gà đã gáy canh một. Sáng sau tơ mơ lại phải đi gặt, cả khu họ cắt, mình lui lại được ư. Lắm lúc kéo xe cải tiến một mình mà tức nghẹn cổ. Xe nặng, đường ổ gà không sao nhích lên được. Sao cái số con nó khổ thế này... - Giọng Đan rơm rớm nước mắt - Hôm qua tát nước khoai tây, phải dòng cả thằng Phong ra đồng.
Ông Tuy dừng tay xếp báo, tháo chiếc kính lão ra nhìn con gái chằm chằm:
- Thì nó đi vắng mười năm nay chứ có phải bây giờ nó mới đi đâu. Mà nó đi vì nhiệm vụ chứ có phải
đi chơi!... Là bộ đội, lại ở nhà được ư. Bao nhiêu năm nay chịu được... Sao tự nhiên giờ mày giở quẻ.
- Bao nhiêu năm nay khác, giờ khác. Trước kia thời chiến anh ấy ra mặt trận, nó đi một nhẽ. Bây giờ là thời xây dựng kinh tế, cũng phải nghĩ đến chuyện ổn định chứ. Bố không thấy à, mấy năm nay những người có chồng ở nhà, vợ làm ruộng, chồng chạy chợ, ương cá giống, trồng thuốc lá, nấu rượu nuôi lợn, họ giàu vùn vụt. Nhà ngói mọc như nấm. Trong nhà giường nọ tủ kia sáng choang. Vợ con người ta nhàn hạ ăn trắng mặc trơn. Trước kia nhà nào cũng sàn sàn như nhau, tất cả trông vào công điểm hợp tác. Bây giờ tình hình khác, nhiều nhà có điều kiện giàu bốc lên, thóc tiền rinh rích, tiền bạc vạn bạc nghìn như bỡn... Trong khi đó nhà con, vẫn giẫm chân tại chỗ. Nhà gianh vách đất. Một mình con ở nhà không xoay xở vào đâu được. Xuân thu nhị kỳ anh ấy gửi cho vài chục bạc không đủ may cho thằng Phong cái áo.
- Thì lương bộ đội nó lấy đâu ra.
- Ừ thì thế, con đâu có trách. Nhưng mà sao lại chỉ riêng một số nhà như con chịu khổ mãi thế này. Trong khi đó khối nhà khác đánh Mỹ chả đến lượt, đánh Tàu chả đến tay. Cứ ung dung ở nhà, vợ chồng hú hí làm giàu. Còn con thì đằng đẵng đợi anh ấy bảy tám năm trời mới về cưới. Cưới rồi lại đi một mạch đến mạch tận lúc giải phóng Sài Gòn. Giải phóng Sài Gòn rồi lại lo đứng lo ngồi chồng ở biên giới. Hết biên giới Tây Nam lại về biên giới phía Bắc. Xong phía Bắc rồi, bây giờ anh ấy lại đi xây dựng công trường này, công trường nọ. Biết bao giờ
cho hết các công trường. Muôn đời cũng chả hết được. Con cứ đợi, đợi... đợi đến lúc xuống mồ ư...
- Mày nghĩ quẩn rồi đấy - Ông Tuy quát - Gia đình mày là gia đình hy sinh, đóng góp... Thế mà mày lại đi so bì với những đứa đang phất lên làm giàu.
- Tại sao con không so bì nhỉ. Trong khi con khổ như thế này, vất vả như thế này, nghèo như thế này mà người ta thì giàu, sướng, nhàn. Mà có phải tất cả người ta giàu vì làm ăn phi pháp đâu. Nhiều người là vì có sức lao động, biết tính toán, khôn ngoan một chút, là khá ngay. Như nhà anh Kiểm đấy. Anh ấy chỉ có ương cá chép vật đẻ, nuôi lợn, rồi tiền mẹ đẻ tiền con mà thành giàu. Bây giờ trong nhà có cả máy phát điện riêng để chạy ti-vi, tủ lạnh, băng nhạc. Con Diễn giờ gót đỏ như son, suốt ngày nằm chềnh ềnh trên võng nghe đĩa cải lương Sài Gòn. Thằng Phong nhà con thỉnh thoảng sang xem ti-vi nhờ, bị thằng cu Ty nhà nó bắt nạt... Nếu anh Ngữ nhà con ở nhà thì anh ấy kém gì anh Kiểm. Vậy mà giờ vợ con cứ chịu khổ như thế này, chả ai biết cho...
- Sao lại không biết. Nhân dân biết, chứ còn ai biết nữa.
- Nhân dân là tất cả mọi người, mênh mông lắm. Mà biết để làm gì mới được chứ.
- Biết để quý mến, khâm phục... chứ còn để làm gì nữa. Thằng Ngữ nhà mày chả gì nó cũng là đại uý quân đội nhân dân. Còn thằng Kiểm xoay trần đi bán cá giống kiếm lời riêng lẻ thì ai người ta cần biết là ai.
Đan cười nhạt:
- Thế là được cái nọ phải mất cái kia chứ gì.
- Con được tiếng là vợ chiến sĩ quân đội thì con phải đi kéo xe cải tiến một mình không có người đẩy chứ gì. Thằng Phong có bố là chiến sĩ quân đội thì phải đi xem ti-vi nhờ và bị con nhà “ai người ta cần biết là ai” bắt nạt chứ gì.
- A... con này hỏng rồi - Ông Tuy đập tay vào xấp báo quát to - Mấy năm tao không để ý đến mày, mày sinh đổ đốn thế này. Tao phải bảo thằng Ngữ về nó dần cho mày một trận...
Đan gục mặt vào đầu gối nước mắt tuôn ròng ròng.
*
*   *
Đan xuống xe vào hàng nước ngồi nghỉ cho ráo mồ hôi. Đồng hồ nhà hàng chỉ ba giờ. Đạp xe xà xã từ sáng giờ mới tới nơi. Đan kinh hoàng khi người sĩ quan trực ban trung đoàn bộ cho biết: Ngữ không có nhà!
- Chị yên trí - Người sĩ quan vội mỉm cười - Ngay bây giờ chúng tôi sẽ cho xe chở chị tới công trường cống Quan Đài. Anh Ngữ đang chỉ huy thi công ở đấy.
Đan reo lên sung sướng. Người lái xe nhanh nhẹn buộc hộ chị chiếc xe đạp vào sau com-măng-ca, rồi tiết kiệm từng phút, cho xe nổ máy phóng thẳng. Anh làm như có việc gì hoả tốc lắm. Đan cảm động bất ngờ.
- Chị xuống đến đây, đơn vị phải có trách nhiệm với chị chứ - Người lái xe nói - À, ra chị là vợ thủ trưởng Ngữ đấy. Thủ trưởng vẫn kể chuyện chị với chúng em luôn. Em vẫn lái cho thủ trưởng đi công tác mà. Anh Ngữ coi em như em. Anh nói chị đã đợi chờ anh, yêu thương anh như thế nào. Bảy tám năm ròng không tin tức, lúc bấy giờ mới về cưới...
- Vợ bộ đội ai chả thế - Đan chép miệng.
- Đúng. Không hiểu sao cho đến nay vẫn chưa có một thứ huân chương đặc biệt dành cho những năm tháng đợi chờ của những người vợ lính. Chúng em rất muốn như thế. Ngay bây giờ hoà bình rồi mà “Vợ lính” vẫn cứ phải lặn lội đến đơn vị thăm chồng như thế này.
Đan cười gượng. Người lái xe phóng hết tốc lực. Xe đến công trường Quan Đài lúc 5 giờ chiều. Công trường chưa tan ca. Một biển người. Đông nườm nượp. Máy móc sắt thép xi măng chất như núi. Dòng sông chảy cuồn cuộn trong ánh chiều vàng.
Anh lái xe dắt Đan đi giữa công trường tìm Ngữ. Anh chỉ tay:
- Chỗ kia là một vạn dân công đang đào một khúc sông mới đón nước cống chảy ra trong tương lai. Đây là một cái cống lớn nhất ba tỉnh vùng này, Nhà nước giao cho trung đoàn công binh chúng em thi công. Ngân sách làm cống mấy chục triệu đồng. Kế hoạch ban đầu định làm rải trong bốn năm, nhưng quân đội hạ quyết tâm với Trung ương làm hai năm. Dồn hết sức người sức của vào mà làm. Cống xong sớm ngày nào là lợi bạc triệu cho nông dân ngày ấy. Bởi nó sẽ chịu trách nhiệm cung cấp nước, tưới tiêu cho ba tỉnh vùng này. Và với hệ thống trạm bơm mới cũng đang được đồng thời xây dựng
rồi đây sẽ không có một cánh đồng dù hẻo lánh nào của ba tỉnh bị hạn úng nữa. Nước sẽ về đến tận quê chị đấy...
Đan bị ngợp chìm trước cảnh dân công, bộ đội như rừng người, biển người đang làm việc. Hệ thống cống vĩ đại đã hình thành cái khung thép giương tua tủa như thành luỹ. Xe trộn bê tông, xe vận tải gầm rú nhức óc và đi lại như mắc cửi. Dưới sông, tàu thuỷ xà lan chở đá, sắt, máy móc, rú còi inh ỏi cập bến. Đan như chim chích lạc rừng.
Gần đến văn phòng ban chỉ huy công trường trống ngực Đan đập thình thịch.
Đan đã chuẩn bị sẵn ở nhà. Phút đầu tiên gặp Ngữ, Đan sẽ nói một câu cực kỳ chua chát: “Anh quên hết vợ con rồi sao!”. Nhưng đến bây giờ tự nhiên cái ý nghĩ ấy bỗng trở thành mù mờ và cứ chực bay biến khỏi đầu óc Đan.
- Anh Ngữ chỉ huy công trường này. Đây là một vinh dự cho trung đoàn công binh đấy chị ạ - Anh lái xe không giấu nổi tự hào - Ngành công binh có nhiều sĩ quan là kỹ sư nổi tiếng và có nhiều kinh nghiệm chỉ huy thi công các công trình lớn. Anh Ngữ là một điển hình. Anh tham gia “làm” công trình này là một sự đóng góp của bộ đội trong sự nghiệp xây dựng kinh tế...
- A lô... Báo cáo thủ trưởng, có người cần gặp đồng chí ạ - Cô văn thư mỉm cười chào Đan rồi quay máy điện thoại. Tiếng đầu dây bên kia nói Ngữ xuống hiện trường chỉ huy việc đổ trụ cống số 3.
- Chị có việc gì cần lắm không, thủ trưởng Ngữ lúc này không thể tiếp ai được đâu. Việc đổ trụ cống cực kỳ quan trọng - Cô văn thư nói.
- Nhưng cuộc gặp gỡ này cũng “quan trọng” không kém - Anh lái xe nháy mắt - Đây là vợ anh Ngữ xuống thăm mà...
*
*     *
- Nửa năm không về nhà, anh không thấy nóng ruột sao anh Ngữ?
- Nóng ruột lắm chứ. Nhưng biết làm thế nào.
- Em trông công trường bề bộn thế này, anh bỏ đi được sao. - Ở đây anh không thể vắng mặt một ngày...
- Thằng Phong thỉnh thoảng lại phụng phịu: bố mãi chả về. Cứ nghe nó nói là em muốn khóc.
- Cố gắng chịu đựng em…
Hai người đi với nhau bên bờ sông đầy ánh trăng. Phía công trường đang làm ca đêm, điện sáng rực trời.
- Anh biết em ở nhà vất vả. Nỗi gian khổ của em không kém gì nỗi gian khổ của anh ngoài mặt trận... Anh biết... Biết tất cả chứ... nhưng anh cũng biết: em sẽ chịu đựng được, vượt qua được. Có thể một phút giây nào đó không dằn được lòng mình, em sẽ oán giận anh, em kêu ca, em sôi sục... Nhưng rồi chính em cũng biết: anh không thể sống khác được. Cũng như em không thể sống khác. Không. Không bao giờ? Không thể rẽ ngoặt sang con đường khác. Đúng không? Em có công nhận không nào... Tất nhiên với sự đi lên của cuộc sống, chúng mình sẽ dần dần tìm cách khắc phục, san sẻ bớt đi những nỗi vất vả bất hợp lý. Nhưng phải có thời gian...
Ngữ vuốt ve bàn tay Đan âu yếm. Bàn tay nứt nẻ thô ráp vì dầm bùn, vì đánh vật với đất. Còn đâu bàn tay nuột nà của con bé mặc áo vàng ngồi trong vườn thu đầy lá vàng ngày xưa nữa. Nhưng Ngữ vẫn nâng niu y hệt ngày xưa.
- Đừng giận anh em nhé... Tha thứ cho anh.
Ánh trăng chiếu trên mặt Ngữ đen sì hốc hác. “Chỉ huy công trường” cái chức nghe “oai” lắm, “vui vẻ” lắm trong lời cậu lái xe ban chiều. Nhưng nó là một cái gì chi phối Ngữ cả đến bữa ăn, giấc ngủ, nụ cười, ánh mắt... Trách nhiệm nặng nề trên vai... Những đồng tiền vốn, những cánh đồng hạn úng của cả một phần châu thổ; những con người đang trần lực ra trong mưa nắng... Tất cả phụ thuộc vào sự tính toán lo liệu của anh…
- Trông anh thiểu não lắm. Làm vừa vừa chứ khéo không ốm đấy - Đan buột miệng.
- Ồ… ốm sao được - Ngữ cười vang - Khi anh đang chỉ huy cái công trường này thì thân xác anh đâu có phải của riêng anh nữa mà nó có quyền ốm. Một cái gì huyền bí đang nhập vào trong anh, và nó đang hoạt động. Có lẽ anh có thể ốm sau khi công trường này hoàn thành. Vì lúc bấy giờ anh là của riêng anh, nó có quyền ốm rồi. Lúc ấy anh lại sẽ lê cái thân xác ốm về cầu cứu em.
- Nói gở - Đan gạt đi.
- Anh biết em phải thân hành đến đây không phải chuyện chơi - Ngữ mỉm cười - Chắc em giận anh lắm - Thế kế hoạch của em định thế nào, cho anh biết đi.
- Kế hoạch ở anh, chứ em ăn thua gì... làm thế nào ổn định cuộc sống
- Hay anh xin về hưu non, làm đôi sọt chạy chợ vậy.
Đan bật cười. Nhưng cũng nguýt chống chế:
- Chạy chợ thì có gì là xấu, miễn là không buôn gian bán lậu.
- Anh mà đi buôn thì chỉ có nhất. Quen biết nhiều nơi, vào đâu cũng lọt.
- Tất nhiên không đến nỗi thế. Nhưng mà...
- Nhưng mà thế nào - Ngữ hỏi - Chịu đấy, anh không còn cách nào khác cả. Em cứ nêu “phương án” của em đi..
- Chẳng hạn như là... như là... Để làm sao khi đi cấy, đi gặt, em không phải thui thủi một mình. Cực lắm. Người ta thì vợ chồng đầu bờ cuối bờ ríu rít.
- Em chỉ yêu cầu thế thôi à! - Ngữ cười.
- Hãy thế thôi!
- Em lẩn thẩn mất rồi - Ngữ vò tóc Đan – Thế thì anh chỉ cần về nghỉ phép đúng dịp cấy, dịp gặt là được chứ gì. Dễ ợt mà...
- Đấy là em nói ví dụ thế thôi. Còn bao nhiêu cái khổ khác nữa chứ. Xa đằng đẵng ấy... cả năm chả thấy mặt.
- Thế theo ý em thì giờ tất cả bộ đội hãy về đóng quân gần nhà hết. Ngày hai bữa cơm ăn với vợ. Tên lửa, máy bay, đại bác để luyện tập thì khuân về để ở trái cối gạo nhà mình, ngày ngày lại đem ra bãi cỏ trâu đầu làng tập. Còn bộ đội làm kinh tế có xây dựng gì thì cũng xây dựng ngay ở đầu làng cuối xóm nhà mình thôi...
- Hãy nói riêng cái phận anh ấy - Đan lườm.
- Phận của anh thì chỉ có hai cách. Một là tiếp tục chỉ huy xây dựng công trường này. Hai là xin về đi chạy chợ, nuôi lợn. Em ấn định cho anh cách nào, anh thi hành ngay không dám cãi.
- Tính toán thế nào, mặc kệ anh, em biết đâu với anh ấy - Đan cãi bứa.
- Nói đùa vậy thôi, chứ có con đường nào khác ngoài con đường hiện tại hả em. Nhưng em yên trí đi.
Công trường này xong một cái là anh nghỉ phép ngay. Anh đã có một khoản tiền kha khá - tiền thưởng sáng kiến kỹ thuật - ngày mai anh đưa cho! Ngàn rưởi cơ đấy, em đem về cứ “tiêu vung tàn tán” cho anh. Để bù lại những lúc phải chi li khổ sở.
- Làm gì mà tiêu vung tàn tán - Đan phản đối.
- Phải để dành cho nó thành một món. Ở nhà em cũng vừa bán con lợn được gần hai ngàn...
- Ồ, thế thì vợ chồng mình “giàu sụ” rồi còn gì nữa...
Đan nguýt:
- Nhưng mà có bằng cái thằng Kiểm nó hắt hơi không?
- Nhưng mà em lại không cho anh về xoay trần đi bán cá giống kiếm lời như thằng Kiểm. Đằng nào em cũng nói được cả...
Ánh trăng về khuya chênh chếch. Tiếng còi giải lao ngoài công trường vang dội dọc sông.
- Thôi về nghỉ đi anh... mệt lắm rồi... Nhớ thằng Phong quá anh nhỉ.
- Em mới xa nó từ sáng đến giờ đã nhớ. Còn anh, xa đằng đẵng nhớ đến đâu!
- Hôm nọ, đi tát nước ruộng khoai tây, bí quá, em lôi cả nó ra đồng. Trong khi ấy vợ chồng thằng Kiểm nó lại phành phạch cái máy bơm ko-le bên cạnh. Nghĩ lúc đó tủi thân chỉ muốn ứa nước mắt.
- Nếu lúc ấy em nghĩ rằng có anh đang xây dựng cống Quan Đài này để tưới nước cho cả một vùng châu thổ, thì chả làm gì mà em phải tủi thân.
Mão Điền - Thuận Thành 7-1981

Mùa sau
C
hiếc xe ngựa đưa tôi đến bản Mán Đà Mi một chiều nắng nhạt. Rừng đại ngàn trập trùng thác reo trắng xoá. Nhưng người ta đã cử tôi đến đây dậy trẻ con học, và tôi phải vui lòng.
Trường bên bờ suối xanh biếc. Lớp bổ túc, ba mươi cô cậu Mán lộc ngộc. Tôi bắt đầu chương trình bằng những bài khoa học phổ thông. Trái đất hình tròn. 2 + 2 = 4.
Người ta hình thành là do sự tiến hoá từ một loài vượn v.v… và v.v...
Bọn thanh niên Mán há hốc mồm nghe, nửa tin nửa ngờ. Chuyện chẳng có gì đáng nói. Chỉ đáng nói nhất là một buổi kia, lớp có thêm một em học sinh mới. Em bước vào, tôi giật mình. Bọn trai gái bản thích thú. Ý chúng tự hào: Bản chúng có người đẹp giống con gái các phương trời, hình vẫn in trên sách báo. Em như bông hoa loa kèn trắng muốt, khác màu. Da trắng, mắt xanh, tóc hoe vàng. Tôi nghĩ rằng em là người lai. Em đến nhà tôi để học từ đầu những chữ cái A, B, C... Những chữ chắp lại thành tên em: SEN SIU.
Nhà tôi bằng trúc vàng trên bãi cỏ xanh thấp thoáng những hàng dẻ gai. Gió bấc đầu mùa, nắng hanh khô, vỏ gai trên nhành nứt lách tách, rơi xuống những hạt cườm nâu bóng. Học hành thì ít, nhưng tôi với em nô đùa thì nhiều. Thật chẳng ra thầy trò. Nhưng em chỉ là học sinh bổ túc! Em đâu phải trẻ con. Em đi quét lá khô lẫn hạt dẻ gai vun lại thành đống, châm lửa. Hạt dẻ chín nổ lụp bụp, bắn tung tàn than. Dẻ đầu mùa bùi thơm khác lạ. Tay em quệt than nhọ nhem trên má, khúc khích cười:
- Thày bảo trên mây cao kia không có giời. Nhưng cái gì làm nên cỏ cây hoa lá chim muông.
Câu hỏi của em, nhà bác học không trả lời được, huống hồ tôi, anh giáo làng!...
Hồi ở quê, tôi mê cô Bích Nhường. Cô là diễn viên chèo, hay đóng vai công chúa. Nhưng tôi mụ mị tương tư y như tương tư công chúa thật. Đoàn chèo về nông thôn để thực hiện “Văn nghệ gắn liền với đời sống”. Và các cô phải đi cấy đi cày. Tôi làm lăn lộn như trâu giúp Nhường, chỉ đổi lấy phút giây được nhìn cô khoả nước lộ ra đôi chân trắng muốt.
Bây giờ lên đây, có Sen Siu, bỗng thấy mình xưa ngu như con chó. Bích Nhường so với Sen Siu, chỉ như cục cứt khô. Rừng thu, lá vàng phủ ngập hai bờ suối, Sen Siu vén váy lội qua, làm tôi chợt nhớ một câu thơ cổ Tây Nguyên thật hay “Đùi trắng như thác đổ”. Tôi với em
hay vào rừng, lội qua suối. Em ngả nhoài bên hòn đá rêu,
váy áo tung lên nổi phềnh như một con sứa. Tôi bồng em, đặt lên hòn đá sưởi nắng thu. Em nằm lim dim, không cho tôi ngồi sát. Tôi ngồi xa, chỉ cần tay cầm lấy ngón chân út em. Thế là đủ, giống như liền mạch điện. Nắng sưởi da thịt em bốc hơi ngùn ngụt thơm nức.
Rừng hè, tiếng ve kêu, như từng mắt cây búp lá hoà âm. Tôi với Sen Siu đi dưới cơn mưa tiếng ve, hái những trái vả rừng có mật bên trong ngọt lịm. Quả nào cũng thế, tôi ăn một nửa, em ăn một nửa.
Những ngày thần tiên ngây ngất. Thật trời thương tôi, thế mà ban đầu tôi cứ oán mãi những người đã bổ nhiệm tôi đi vùng cao dạy học...
... Dịp ấy, mấy hôm liên không thấy Sen Siu đến lớp. Lòng tôi như lửa đốt, không thể chờ đợi, tìm đến nhà em. Trong nắng chiều buồn rượi, dưới nhưng cây cọ già úa tàn, nhà em hiện ra trong cảnh hiu hắt. Một con chó hoang đói khát lượn lờ bên hàng rào sim mua. Gọi mãi không có ai thưa. Nhà đóng cửa im ỉm. Nắng xiên ngang trên hè đầy lá rụng. Lát sau có bà già Mán đồi bên sang. Bà nói: “Bố con nó đi khỏi đây rồi!”
- Đi đâu? Vì sao? - Tôi rụng rời chân tay.
Bà già Mán rượi buồn:
- Chuyện dài dòng lắm!
*
*    *
... Ngày ấy ở một bản xa lắc xa lơ có một chàng trai khoẻ, vật nhau được cả với gấu. Không hiểu vì sao mà người ta vu cho anh là ma cà rồng chuyên đi hút máu người, chất củi định thiêu sống. Anh trốn thoát một mình lên rừng già, ăn hang ở lỗ, tránh xa con người.
Một đêm trăng thanh gió mát, có nàng tiên cởi áo xuống tắm suối đầu nguồn.
Da thịt tiên toả sáng vằng vặc cả một vùng.
Chàng trai cô đơn ra bờ suối ngắm tiên. Rồi chàng ăn cắp được chiếc áo tiên, tiên không bay về trời được nữa, phải ở lại làm vợ anh.
Họ ăn ở với nhau đẻ ra một người con gái xinh đẹp như khuôn đúc của mẹ đặt tên là... Sen Siu...!
... Tôi bật cười thấy sắc màu huyền thoại trong câu chuyện.
- Bố mẹ Sen Siu từ rừng già di chuyển về bản Nà Sa ở - Bà già tiếp - Nàng tiên đẹp quá làm cả bọn trai bản Nà Sa phát điên hết. Đêm chúng rình mò quanh nhà anh, cứ như chó săn rình thỏ. Anh phải làm hàng rào nứa vót nhọn như hàng rào chống hổ. Có thằng bị xiên lòi ruột, chết tươi mà chúng vẫn không sợ.
Nàng đi đến đâu, chúng theo rều rễu như chó sói săn hươu. Không làm sao yên ổn được với chúng. Chàng trai phải nhốt vợ trong cũi to, khoá cửa chắc mỗi khi đi vắng.
Không bao giờ anh bắt vợ phải mó việc gì, kể cả quét nhà, cho lợn gà ăn.
Nàng ra suối giặt, anh nói: lạnh tay. Nàng vào bếp, anh nói: rát má hồng. Anh chỉ muốn đặt vợ lên bàn thờ để thờ.
Anh yêu nàng đến thế, vậy mà nàng vẫn chán cảnh đời thường, vội vàng rời bỏ. Đáng lẽ nàng bay lên trời, nhưng trót đẻ con với người, nên nặng mùi đời, thân xác đành gửi cho đất chôn, chỉ hồn bay đi được. Năm ấy Sen Siu mới lên 10 tuổi. Bố nó đau khổ quá thành người lẩn thẩn, đun nấu thế nào làm cháy hết nhà, vườn. Suối không cháy được. Nhưng cả vùng thành tro tàn. Hoặc giả chẳng phải ngọn lửa ông đốt mà do lửa của giời trừng phạt một kẻ người trần lại dám lấy tiên. Hai bố con trắng tay bồng bế nhau đi lang thang vô định rồi tới bản Đa Mi này làm hàng xóm của ta.
Sáu mùa cây rừng thay lá, Sen Siu đã thành cô gái. Càng lớn càng xinh, y hệt như mẹ ngày xưa. Sen Siu đẹp bao nhiêu thì bố nó lo lắng bấy nhiêu. Lão già từng suýt bị thiêu sống, từng mất vợ đẹp nhất đời ấy mắc bệnh sợ sệt đủ thứ. Lão bảo: hổ nó cũng thích vồ con gái đẹp. Gai cũng thích đâm vào bàn chân con gái đẹp. Sấm sét cũng thích đánh vào con gái đẹp. Kiến cũng thích đốt vào da con gái đẹp. Làm sao lão giữ được con gái lão trọn vẹn bây giờ.
Cách đây ít tuần lão nói: thiên hạ bảo sắp đến ngày tận thế tuyệt diệt. Lão đem con gái đến núi Hang Thần trú ngụ.
*
*    *
Tôi về nhà, lòng nặng trĩu. Mua con ngựa, sắm khẩu súng săn, tôi lang thang vô định đi tìm em. Tôi đã qua dăm ba con suối, dăm bẩy cánh rừng, ngẩn ngơ mong ngóng. Núi cao chất ngất. Thác réo trắng trời. Đêm ngủ trên chạc cây, ngày hái quả rừng. Cuối cùng tôi lọt vào một thung lũng, núi đá vôi bao quanh.
Nắng quái chiều hôm rải trên những nóc nhà lợp ngói âm dương rêu mốc. Cái bản lèo tèo tàn tạ trong lòng thung lũng. Mấy con chó đói lưỡi thè lè sủa trong ngõ lối hoang rậm.
- Đây là đâu thưa già làng? - Tôi hỏi một ông cụ.
- Bản Dương Sỉ núi Hang Thần.
Trời, thế là tôi đã đến đích. Tôi theo về nhà Cụ già tá túc. Đêm ấy, bên đống lửa nướng sắn, tôi nghe Cụ kể “chuyện lạ” ở đây.
- Bản Dương Sỉ của ta xưa đông vui thanh bình. Trai gái ngày ngày vào rừng săn bắn, hái lượm, đêm trăng tụ tập bên bờ suối, thổi kèn lá múa hát. Giờ thì xơ xác tiêu điều. Chung quy chỉ tại thằng Tnan - con lão thầy mo. Lão thầy mo xưa vẫn cúng giời giúp mọi người. Lão chết, con lão lên nối nghiệp. Hắn bỗng tuyên bố: “Không có giời đâu, chỉ có Thánh. Và hắn chính là sứ giả của Thánh xuống mách bảo điều lành cho dân bản các vùng. Thánh đã lộ cho Tnan biết: Loài người do ở ác quá nên sắp đến kỳ tuyệt diệt. Mặt đất sẽ có nắng lửa mưa dầm 9 tháng 10 ngày. Tất cả khô cháy thành than. Tiếp đến hồng thuỷ nước ngập ngang trời. Mọi người sẽ chết hết.
Loài người phải trả giá cho tội lỗi chồng chất của mình từ thuở khai thiên lập địa đến giờ. Tham lam. Dối trá. Ích kỷ. Hưởng thụ. Ghen ghét. Cá nhân...
Thánh chọn một số người tốt, có đức tin, cất vào Hang Thần làm “Hạt giống mùa sau”. Những người
sống sót qua tai nạn nắng lửa, mưa dầu, hồng thuỷ ấy sau này sẽ làm chủ mặt đất.
Ai muốn làm “Hạt giống mùa sau” hãy túc trực quanh hang Thần, thờ cúng Thánh. Tại đây dưới sự chăn dắt của Tnan, mọi người sẽ gột rửa các tội lỗi xấu xa: thích sang giầu; coi nhẹ đức tin lý tưởng, ham muốn dục vọng. Sau khi sửa mình sạch lâng, sáng trong như suối, sứ giả Tnan sẽ dẫn mọi người trình diện Đức Thánh xin được tuyển lựa.
Tnan đến Hang Thần ở, ban đầu chỉ ăn hoa quả, uống nước suối đun sôi, ngày ngày ngồi hành đạo. Dân bản ai ốm hắn hái lá rừng, làm bùa cúng bái chạy chữa.
Nhiều người đã đến Hang Thần làm đồ đệ Tnan với ước mơ được là “Hạt giống mùa sau”. Thanh thế giáo phái “Hạt giống mùa sau” ngày càng lớn dần. Từ những vùng xa, người ta lặn lội đến đây. Trai có, gái có, trẻ có, già có. Vùng núi Hang xưa hoang vu, chỉ có thác nước, thú rừng, giờ tấp nập...
Ôi, thật chuyện lạ lùng!
*
*    *
Nắng sớm trên những ngọn đá vôi trập trùng. Tôi đứng quan sát. Cửa Hang Thần rất lớn. Trong đó là các ngóc ngách của hệ thống hang thường thấy ở các dãy núi đá vôi. Một con suối trong vắt chảy ngang trước cửa, tạo nên cảnh đẹp thần tiên.
Tôi thật sự kinh ngạc thấy lều trại các đệ tử lúp xúp bên suối. Một bọn đàn ông đàn bà hỗn độn ngồi nằm trên bãi cỏ. Chúng thản nhiên đùa nghịch xé váy áo nhau, vú vê thỗn thện.
Có bọn lại đang nô nghịch nhau dưới suối, bơi lội như đàn cá trắng.
Đạo gì mà lạ lùng vậy. Thảo nào thu hút được bọn trẻ. Vậy mà “kinh” của nó lại có nội dung “gột rửa thèm khát dục tình” đấy. Tôi chợt hiểu sự lừa bịp của nhiều giáo lý. Nói một đằng, nhưng thực tế làm một nẻo.
Râu ria tóc tai rũ rượi, ăn uống bốc bải nhồm nhoàm, quần áo hở hang... Giáo phái “Hạt giống mùa sau” của Tnan có vẻ giống một bọn “híp bi” hay nói trong sách báo nước ngoài.
Tôi đi sâu vào trong hang. Tnan đang hành lễ cùng nhiều đệ tử già. Trên cột nhũ đá nhiều bùa treo sặc sỡ. Tnan vạm vỡ, mắt huyền bí đầy uy lực, giọng đọc kinh âm vang: “... Muôn lạy Đức Thánh cầu mong Người tuyển chọn chúng con làm hạt giống mùa sau. Chúng con nguyện là người không thèm của cải, không ham sắc dục. Chúng con tin mùa sau của loài người chỉ toàn
hoa thơm quả ngọt, người với người chỉ toàn thánh thiện, không có sự ác, sự xấu. Mặt đất giống như Thiên đường, tiên ở lẫn với người, người cũng như tiên.
Cuối buổi hành lễ, tôi kinh hãi thấy người ta điệu ra một chàng trai bị trói giật cánh khuỷu. Tnan cầm cành lá có gai dấm “nước thánh” vụt túi bụi đến toé máu khắp người chàng trai.
- Hãy xưng tội đi quân dị giáo.
Chàng trai đau đớn rên rỉ:
- Con đã không thắng được lòng ham muốn của cải. Hôm qua trong khi qua suối, con vô tình nhặt được viên đá quý óng ánh ngũ sắc. Đáng lẽ phải nộp cho giáo chủ thì con đã đào hố chôn, giữ riêng cho mình. Và bị phát hiện...
- Xử tội thằng này thế nào bây giờ?
- Nó đã coi trọng của cải hơn lý tưởng của Đạo “Hạt giống mùa sau”. Hãy giả nó viên đá quý để nó về quê. Nó không xứng đáng để Thánh tuyển lựa.
- Đâu dễ thế - Tnan quát - Dốt vào hang sâu. Cho ăn đói. Bằng cảm giác của dạ dày, nó sẽ hiểu chân lý là gì.
Tnan hành lễ xong, ba bốn cô gái xinh đẹp vội chạy đến nâng niu đưa hắn về hang riêng. Giường của hắn được vây quanh bằng ổ nằm của các nữ đệ tử.
Giáo chủ gì mà kỳ cục vậy.
Tôi chợt nhớ đến những thông tin về giáo phái kỳ quặc ở các nước văn minh Âu Mỹ. Chúng cũng bầy đàn híp bi cuồng tín như thế. Ở Mỹ, có giáo phái còn tự sát tập thể chết cả trăm người. Ấy là giữa lòng xã hội công nghiệp phát triển nhất thế giới đây. Huống hồ chốn rừng xanh núi đỏ này. Nghĩ cho cùng giáo phái “Hạt giống mùa sau” của Tnan trong hang Thần, cũng là chuyện dễ hiểu...
*
*   *
... Ta tự hỏi ta sinh ra đời để làm gì cho khổ nhỉ. Đáng lẽ phải chết đi, nhưng oái oăm thay ta lại cứ muốn sống.
Ta sinh ra là một chàng trai bản thông minh hoạt bát có học hành. Ta biết vào rừng săn gấu săn nai. Biết thổi kèn múa hát. Vì biết nghĩ bằng cái đầu của mình nên ta dám chống lại tên thày mo kiêm chức trưởng bản. Ta chế giễu những lời rao giảng nhảm nhí lừa bịp của lão. Vì thế, nhân khi bản có nạn dịch, hắn bảo ta là ma cà rồng chuyên đi hút máu người. Dân bản ngu dốt tin lời hắn, đùng đùng lập dàn hoả thiêu ta. Đời nào ta chịu chết. Nửa đêm, ta chạy trốn vào hang đá rừng sâu, đem theo hạt giống, gia súc, dao quắm, cung tên. Đời buồn lắm nhưng còn hơn chết cháy. Ta hái quả rừng, đặt bẫy thú, vỡ đất trồng ngô mà sống.
Ta thù cái bản làng ngu muội độc ác. Ta hờn con người. Thề vui sống với cỏ cây, trăng vàng nước biếc trọn đời trong rừng.
Nhưng rồi một đêm ta nghe có tiếng máy bay âm âm trên nóc rừng già. Tiếp đó một tiếng nổ xé trời, ngỡ là sét đánh. Sáng sau ta ra nương, thấy cảnh hãi hùng:
Một chiếc máy bay đâm phải vách đá rơi bên bờ suối. Mấy xác người Tây bắn lăn lóc. Ta đào hố chôn cất họ, rồi vẩn vơ tìm xem có thể lấy được cái gì cần cho cuộc sống biệt lập. Bỗng có tiếng rên sau bụi cây rậm. Ta đến gần. Một cô gái người Âu mắt xanh tóc vàng, máu đỏ đầy áo. Ta ôm cô gái về hang, hái lá rừng chạy chữa. Mật gấu xoa vết thương. Cao hổ nhung hươu tẩm bổ. Hai tháng sau cô gái khỏi hẳn.
Ta chưa thấy trên đời này có người nào đẹp như thế.
Nòi giống họ là như vậy. Trắng nõn trắng nà như cây chuối bóc. Tóc vàng như nắng toả trên vai. Mắt xanh như sắc trời cao thăm thẳm trên đầu. Ta và cô chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau, toàn phải dùng tay chân làm điệu bộ. Dần dà cũng nói với nhau được một số tiếng. Cô buồn bã
khóc ròng mặc dù biết rằng mình vừa từ cõi chết trở về. Đây là núi cao rừng già tách biệt khỏi thế giới loài người. Lối nào cho cô về lại được thành phố quê hương. Cô là nhân viên một tổ chức nhân đạo quốc tế bay sang Lào gặp nạn, lạc bước nơi đây. Nếu một mình băng rừng cô sẽ bị thú dữ ăn thịt dọc đường. Vả lại biết lối nào mà đi.
Ta chiều chuộng cô gái hết mức. Cho cô ăn của ngon vật lạ đặc sản rừng. Đêm rét, ngồi khêu lửa sưởi và canh thú dữ. Khóc hết nước mắt, tuyệt vọng đường về, cô đành nguôi ngoai dần và sống. Một đêm động rừng, thú dữ gào thét, cô gái sợ hãi đã ôm choàng lấy ta cầu cứu. Từ đấy cô là vợ ta. Ta là một chàng trai tráng kiện, vật nhau được cả với gấu. Chỉ có ta là người duy nhất ở đây che chở cho cô. Dù là miễn cưỡng, cô cũng đẻ cho ta một đứa con gái xinh đẹp như mẹ. Ta có niềm vui, gắng sức tu tạo cuộc sống đàng hoàng. Gà lợn cả đàn. Hoa trái không lúc nào thiếu.
Khi đứa trẻ lên sáu, ta và nàng chán cảnh rừng già cô độc, về bản Nà Sa. Một bãi cỏ mênh mông, một con suối trong vắt dưới bóng cây đại thụ, đấy là nhà mới của ta. Ta đã sống những ngày êm đẹp. Chim chóc ru nàng trong giấc ngủ. Hương lá đánh thức nàng sớm mai. Ta hứng sương sớm trên cánh hoa đun nước cho nàng uống. Chọn trái bói đầu mùa cho nàng ăn. Vun lá thu vàng rải lối nàng đi... Vậy mà nàng vẫn không ở lại với ta. Không phải nàng trốn. Mà là sự dập gẫy của một bông hoa đã từng bị ném từ trên cao xuống vách đá. Làm sao hoa tươi lại được. Đau đớn thể xác lẫn tâm hồn.
Ta đau khổ quá, chẳng muốn sống nữa. Đau khổ hơn cả khi xưa trốn dàn hoả thiêu, lên hang đá rừng già. Nhưng ta còn con, phải sống nuôi nó.
Cái nhà “bồng lai tiên cảnh” ở bản Nà Sa bấy giờ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cỏ úa, cây vàng, suối đục, chim chóc bay đi. Còn người thành ngớ ngẩn. Lập cập, người ngớ ngẩn đun nấu làm cháy cả nhà, vườn, rừng. Suối hai bờ cũng bị đen thui, nước suối nếu cháy được thì nó cũng đã cháy.
Ta không còn nghị lực để sống biệt lập, phải lần mò về bản Đà Mi đông vui, dựa dẫm mọi người. Ở đây, con gái ta đã khôn lớn. Càng ngày càng giống mẹ nó. Như khuôn đúc thứ hai. Nó càng đẹp, ta càng lo. Bởi không có gì mong manh hơn cái đẹp. Không có gì mong manh hơn cánh bướm.
Ngày trẻ ta chế giễu thần thánh của lão thày mo trưởng bản. Ta chỉ tin ở ta. Sức ta có thể vật nhau được với gấu kia mà. Chính vì thế mà ta bị hoả thiêu. Về già, sau khi nếm trải đủ vị sướng vui cay đắng, ta bỗng hiểu rằng còn có thế lực siêu nhiên chi phối cuộc đời. Ai đã đem đến cho ta người vợ kỳ lạ ấy. Có khác gì chuyện tiên xuống trần không? Rồi ai lại cướp đi của ta người vợ ấy. Có khác gì chuyện tiên bay về trời. Ta tin có Đức Thánh sắp xếp chuyện đời...
Hi vọng bao nhiêu, thì đến đây thất vọng bấy nhiêu. Những gì mắt thấy tai nghe ở Hang Thần những ngày vừa qua làm ta ngao ngán...
Ông già Mán đi trước, cao lớn, lưng gù gù như gấu. Tôi theo sau. Đường vòng vèo lên dốc xuống khe qua bản Dương Sỉ. Trong nắng chiều vàng, đồi hoa trẩu hiện ra.
Ồng già dừng lại gõ cửa ngôi nhà nhỏ - ẩn kín trong cây. Một người con gái trắng muốt như hoa trẩu hiện ra. Tôi kêu lên:
- Sen Siu.
- Thầy giáo.
Tôi ôm chầm lấy em.
- Làm sao thầy tới được đây.
- Tôi đi tìm em đã nửa tháng nay.
Sen Siu ngẩng lên hỏi ông già Mán:
- Thầy giáo gặp cha ở đâu?
- Ngoài cửa Hang Thần.
- Thầy giáo đem em về bản Đà Mi, em không muốn ở đây một ngày nào nữa.
Ông già Mán nhả khói thuốc nhìn tôi:
- Ta giấu con gái ta ở đây đã nhiều ngày. Chỉ mình ta đến Hang Thần trinh sát trước. Nhân gặp thầy giáo hôm nay, bây giờ thì ta quyết! Không mơ hồ gì về giáo phái “Hạt giống mùa sau” của Tnan nữa. Chúng ta cùng về Đà Mi thôi!...
Sáng hôm sau, chúng tôi lên đường sớm. Sen Siu ngồi trên mình ngựa do tôi dắt. Cha em khoác súng kíp theo sau.
Núi Hang Thần lùi xa dần sau lưng. “Mùa sau” không ở đấy. Mùa sau có hoa tươi mật ngọt đang đợi tôi và Sen Siu trước mặt...
Ngọc Hà 6/94


Trang viết của ông tôi
Ô
ng tôi là thầy lang phố huyện. Hiệu thuốc của ông bé con con. Thuốc thì toàn rễ cây, lá cây do chính tay ông lên núi hái về, hoặc trồng trong vườn nhà. Rồi sao sao, tẩm tẩm, chừng quý giá lắm!
Tôi thì chửa dùng thuốc của ông bao giờ. Vì nếu ấm đầu một tý thì chỉ cần nuốt ực vài viên anagin là khỏi. Nhanh và tiện biết chừng nào. Thuốc của ông phải đun đun, nấu nấu phiền toái, mà uống vào thì đắng như bọ nẹt sung sướng nỗi gì.
Ông tôi không để râu dài trắng xoá như Hải Thượng Lãn Ông, không treo biển “cứu nhân độ thế” ngoài cửa, nhưng rất lạ là khá đông khách đến bốc thuốc. Có người ở tận tỉnh nảo tỉnh nao cũng cơm nắm, cơm gói đến đây để mua mấy cái gói rễ cây lá cây bé con con. Cái lạ là đông khách mà ông tôi vẫn cứ nghèo. Bao nhiêu năm chả mua sắm được bộ bàn ghế cho ra hồn để khách hàng ngồi. Kể thì cũng đúng thôi. Vài nắm rễ cây, lá cây lấy đâu ra nhiều tiền mà giàu được. Phố huyện khối người biết làm ăn, phất lên trông thấy. Ông “Mực Hảo Hạng” chẳng hạn. Tên ông ấy là gì tôi quên mất rồi. Chỉ thấy cả phố quen gọi là ông “Mực Hảo Hạng”. Là vì nhờ sản xuất mực bán mà ông ấy phất. Ông ấy khôn lắm, từ bao năm trước thấy hàng hoá khan hiếm (cả mực viết - cái bình thường nhất cũng không có) nên ông ấy bèn nghiên cứu chế tạo mực. Cả nhà thành một xưởng nhỏ. Mực bán buôn hàng kiện chở đi khắp các tỉnh. Chỉ một thời gian ngắn, ông ấy làm được nhà gác sừng sững ngay bên ngôi nhà bé xíu lợp ngói âm dương rêu mốc của ông tôi...
... Một hôm ông tôi bảo: “Mày sang bác Mực Hảo Hạng mua một lọ về đây!”
Từ hôm đó, mỗi ngày một giờ, ông ngồi trầm ngâm đọc cho tôi viết. Chán ơi là chán, những trang sách của ông, nói toàn chuyện bệnh tật và các đơn thuốc chữa của ông nghĩ ra. Rễ gì, bao nhiêu đồng cân, lá gì, bao nhiêu đồng cân, củ gì bao nhiêu lát... sao vàng sắc đặc, úp niêu đất hạ thổ. Rồi nào củ gì cửu chưng, cửu sắc, củ gì tấm gỉ tẩm gì... tôi nghe chán mớ đời.
Ông miêu tả kỹ càng các chứng bệnh của ông nảo ông nào ở đẩu ở đâu và đã uống thuốc gỉ thuốc gì của ông mà khỏi v.v...
Tôi viết đặc kín một quyển vở. Ông cất vào tráp, cất kỹ làm như của báu không bằng.
Nhưng tất nhiên là tôi chẳng quan tâm. Chẳng ai quan tâm. Điều bất ngờ (mà thực ra cũng chẳng bất ngờ vì ông đã già rồi) là đến cuối năm ông tôi lâm bệnh và mất. Chỉ bất ngờ là ngày đưa ma, con bệnh đến
đội khăn tang đưa đám trắng xoá cả đồng. Họ đều nói ông đã cứu họ, chữa cho họ khỏi bệnh hiểm nghèo. Điều bất ngờ nữa là một hôm ông “Mực Hảo Hạng” bỗng kêu la như bò rống vì tức bụng đầy hơi muốn chết. Tưởng ông ấy thì làm gì mà mắc bệnh được. Giàu có, ăn uống tẩm bổ như đắp, béo núc ních như thế kia cơ mà.
Tôi sang thăm thấy bụng ông trương phềnh như bụng cóc, và ông lăn lộn trên phản xuống đất, chân tay buồn bực vung vảy kêu gào. Bao nhiêu giò chả ngon lành, chịu, chả làm sao mà nốc vào bụng được nữa. Hàng vốc thuốc Tây ném vào cổ họng ông mà không làm sao cho cái bụng trương phềnh xì ra được một tí hơi. Chả lẽ phải đem đến bệnh viện để giải phẫu cho hơi thoát ra. Tôi sực nhớ đến cuốn sổ ở trong tráp của ông tôi. Trong đó có nói đến một căn bệnh hệt thế này. Sở dĩ tôi nhớ là vì ngày hôm ấy viết đến chỗ đó tôi buồn cười quá khi ông miêu tả cái bụng cóc nhất định không chịu xì hơi của con bệnh. Rễ gì, củ gì, lá gì bao nhiêu đồng cân, tẩm gỉ tẩm gì úp niêu đất hạ thổ, rồi sắc thuốc uống mỗi giờ mấy thìa mấy hớp... Bệnh án ghi rõ con bệnh đã khỏi sau ngày đầu tiên dùng thuốc...
Tôi vội nói cái điều sực nhớ ra ấy cho vợ chồng ông Mực Hảo Hạng.
- Cậu cứu tinh ơi, cậu về lấy ngay cuốn sổ ấy sang đây cho tôi - Lão Mực vừa xoa bụng vừa kêu lên, mừng rú.
Tôi chạy về, bẻ khoá “pắc” một cái, cầm sổ sang.
Cả tôi, cả lão Mực, cả vợ lão tranh nhau giở.
- Trang nào? Trang nào?
- Đây, đây, cuối sách.
- Nhưng đâu, đâu, có gì đâu? - Cậu định giễu chúng tôi hay sao thế này?
Ngón tay chuối mắn của lão Mực lướt mở soàn soạt.
Những trang giấy ố vàng, chả thấy chữ nghĩa đâu cả.
- Hay là cậu mang nhầm sách khác?
- Không. Chính cuốn này. Sách cất kỹ trong tráp, nhầm lẫn làm sao được.
Nhưng những dòng chữ ông đọc tôi chép ngày ấy đi đâu mất cả rồi?
Đem ra cửa sổ sáng căng mắt nhìn mãi bây giờ mới thấy lờ mờ nét bút. Có chữ đấy, nhưng là mực đã bay màu hết, bạc phếch, bạc sạch đến mức không còn làm sao mà đọc mà luận ra chữ gì nữa.
- Sao lạ thế nhỉ - Tôi ngạc nhiên.
- Cậu viết bằng thứ mực mua của nhà tôi chứ gì? - Vợ lão hỏi.
- Vâng, nhãn “Hảo Hạng” mà!
- Trời ơi! - Vợ lão Mực thở dài.
- Chết tôi rồi - Lão Mực nằm vật ra giường, thở hắt ra.
- Sao mực của bác lại bay màu đến nỗi không còn cả chữ nghĩa thế được nhỉ? Hoá ra mực “rởm” à - Tôi ngạc nhiên.
Vợ lão Mực rên rỉ:
- Giá cậu viết bằng thứ mực thật thì giờ đâu đến nông nỗi này.
- Giá bác đề ngoài nhãn: “mực rởm” thì cháu sẽ không bị nhầm - Tôi đối lại.
Lão Mực tuyệt vọng. Sự khó chịu của chứng đầy hơi ác tính chợt tăng cao làm lão lại rống lên như bò bị cắt tiết.
Mặc kệ, tôi dửng dưng cắp quyển sổ của ông tôi về. Tiếng rống của lão vọng theo, ngày càng não nề. Cái bụng cóc trương phềnh kia không có bài thuốc nam đặc hiệu của ông tôi chữa còn lâu mới chịu xẹp.
1987

Con khỉ
(Bối cảnh chuyện là xã hội miền Nam
trước năm 1975)

Ô
ng Érit Phương có một cửa hàng đặc biệt
trong thành phố bán toàn các loại chim muông thú rừng. Tuyệt. Những con vật mỏ đỏ, lông xanh biếc nói hai ngoại ngữ thông dụng nhất của thế giói “Ôkê” và “Bông jua”. Những con khỉ nhỏ mặc một thứ quần áo cũng đẹp nhất thế giới: kimônô. Rồi là những con chồn có chiếc đuôi đẹp hơn người; con kỳ nhông tắc kè - những đại biểu hổ thẹn của một dòng giống oai hùng chối từ mặt đất này: bò sát cổ đại.
- Thưa ông Érit Phương, ông bán cho tôi con quạ ạ...
- Vâng thưa ngài con quạ có khoang cổ trắng này quý lắm. Ngài trông, thật nó chẳng khác gì một chàng tử tước Anh cát lợi mũ phớt lụa đen, áo đuôi tôm đen, cổ cồn trắng muốt.
- Tôi thích nghe tiếng quạ kêu trong vườn nhà.
- Đúng thế, tôi cũng vậy. Tôi chán ngấy tiếng họa mi, vàng anh... chán ngấy. Khi chiều về, vầng Kim đỏ ối... quạ quạ quạ... tiếng quạ đen bên hiên cất lên tiễn biệt cánh quạ vàng.
- Mỗi ngày cho nó ăn mấy chú gà con?
- Một hay hai gì đó...
Đút tiền khách trả vào túi, ông Érit Phương nhăn nhó: “Chỉ với mấy tờ bạc này mà ngài mua được cả cái âm thanh gợi một thời hàn vi thơ ấu, lúc đó ngài đang đứng ở chân đống rơm, một con quạ sà xuống quà quà cắp mất con gà con mà mẹ ngài cho ngài nuôi riêng để vốn làm giầu... Chỉ với mấy tờ bạc này... Chà, thời buổi bây giờ buôn bán thua lỗ quá...
Cửa hàng ông Érit Phương ngày càng thêm nhiều mặt hàng mới. Ông cho người tới các miền rừng săn bắt rồi chở máy bay về thành phố. Một bữa kia, ngày hên, có một chiếc Cadilắc đen bóng xịch đến. Từ trong xe, một người hói đầu bước xuống, xung quanh đầy lính hầu.
- Tôi muốn mua...
- Vâng... xin sẵn sàng hầu ngài như ý.
- Cá sấu.
- Có ngay ạ.
- Rắn hổ mang, trăn mốc, chó sói, lợn lòi.
- Thành giá tất cả nửa triệu.
- Tôi mới xây xong một biệt thự có hoa viên bao quanh, suối chảy trong phòng.
- Trời, tôi thật sung sướng được hầu quý ngài. Những thứ này đóng cũi để trong hoa viên ấy, thật nhất đời.
Nhưng theo tôi có lẽ ngài nên thêm một chú hổ nhỏ, be bé xinh xinh hay một con gấu xinh xinh be bé...
- Tôi e những thứ đó nhàm rồi.
- Ngài đúng là người có cá tính.
- Ông Érit Phương, ông có biết khách đang mua hàng của ông là ai không? - Một người lính hầu vừa đếm tiền vừa ghé tai ông hỏi nhỏ.
- Dạ, dù là ai thì tôi cũng không thể bớt được ạ. Đúng nửa triệu.
- Nhỡ khách hàng của ông là ngài chủ tịch Hạ viện thì ông nghĩ sao...
- Dạ...
- Ngài chủ tịch Hạ viện muốn có những “người bạn đặc biệt” kia cho vui cửa nhà. Ông nên nhân dịp này tỏ lòng ngưỡng mộ một bậc hiền nhân.
- Dạ... Vậy xin bớt 30 ngàn. À... vâng... không thể bớt thêm được ạ...
Ông Érit Phương trở vào nhà khoan khoái xen lẫn tiếc rẻ. Nhưng chả lẽ không bớt cho ngài chủ tịch Hạ viện được 30 ngàn ư... Ông ấy bận bao nhiêu việc nước... Tóc ông ấy bạc cả vì ai, rụng cả vì ai... Việc bớt tiền giống như nghĩa cử gián tiếp hy sinh đóng góp cho đất nước...
Như một chu kỳ, sau cái ngày hên được làm nghĩa cử vì nước, đúng một tuần sau ông Érit Phương lại được làm việc với ông Tổng trưởng Quốc gia giáo dục. Ông Tổng trưởng còn trẻ, dáng một nhà học giả đi chiếc Pholit màu mận chín đến vào buổi sáng, không nói không rằng, chìa tờ nhật báo rao tin ra “Cửa hàng rừng nguyên thủy Érit Phương có một món hàng đặc biệt: khỉ giả nhân. Nó giống hệt người, hay nói cách khác đã là người thời nguyên thủy. Một cô gái da đen lạc vào rừng đã từng phải làm vợ con khỉ này ba tháng. Khi cô trốn được về làng, con khỉ nhớ vợ, về theo và bị bắt. Cửa hàng chúng tôi mua được nó trong cuộc đấu giá. Nhưng vì nuôi nấng tốn kém đối với một cửa hàng, nên chúng tôi xin nhượng lại cho quý vị nào yêu thích với giá hòa vốn”.
- Vâng thưa ngài, mời ngài vào xem hàng - ông Érit Phương cúi gập người chào ngài Tổng trưởng - con khỉ giả nhân hiện đang dùng “bích phớt”.
Ông Tổng trưởng xách một ca táp tiền, đến trình diện trước con khỉ giả nhân. Hai bên chòng chọc nhìn nhau.
- Mũi tẹt, trán tẹt, cằm quai hàm dô ra, nhưng trông vẫn giống hệt người...
- Nó nặng bao nhiêu ký?
- 30 ký.
- Không được thế đâu.
- Được, thưa ông, trông nó phải bằng đứa trẻ con lên mười chứ kém gì.
- Bao nhiêu tuổi.
- 9 tuổi.
- 9 tuổi sao là chồng cô gái Nam Phi được.
- À... đó là tuổi trưởng thành của loài khỉ.
- Vậy sao ông dám rao tin: hay nói cách khác đó là người...
- Vì đó là khỉ... khỉ người... ngài xem động tác cầm cốc bia của nó khác gì ông khách trong Hotel Caraven không. Một nét “người” nữa là nó luôn đòi hỏi “hưởng thụ”. Nó lắc đầu nhăn mặt khi đưa vào si-rô đường hóa học, và cười tươi khi nhận bia. Khi có con gái đến xem, nó bồn chồn, rạo rực, và khi “chia tay” nó buồn bã bâng khuâng. Nó là kẻ đã từng có “vợ người” ba tháng.
- Bản tính nó thế nào, tôi cần phải biết để nuôi dạy đúng cách.
- Khi no bụng, không bị thú khác tranh cướp phần ăn, nó hiền, thiện. Nhưng khi có nguy cơ bị thiệt hoặc mất phần ăn, nó ác, lập tức lồng lên tranh cướp. Trước các thú mạnh hơn, nó tỏ ý thuần phục, nhưng với các thú nhỏ hơn, ra sức chèn ép.
- Vậy là nó thiện hay ác?
- Ác 51% và thiện 49%. Nhưng ngài có cách điều chỉnh tỷ lệ. Toàn bộ nghệ thuật “cai trị” của ngài là điều chỉnh tỷ lệ sao cho nó thành hiền nhiều hơn.
- Nhưng nếu tôi thích ngược lại thì sao. Tôi thích một con thú dữ, ác.
- Có rất nhiều người như ngài. Không có gì đáng ngạc nhiên.
- Trạng thái vui, buồn của nó?
- Sự đều đều làm cho nó buồn, nhưng những đột biến có lợi cho nó, dù là đột biến rất nhỏ nó cũng vui. Chẳng hạn ăn thịt đều đều, buồn. Nhưng từ ăn rau héo đến rau tươi: vui...
- Ông cho đó là một con vật khôn hay dại?
- Khôn nhỏ mà dại lớn. Thích vợ, nhớ vợ, lần mò về làng. Về được đến nơi, tưởng đã là con vật khôn. Nhưng khôn dừng ở đó.
- Có cách nào để trị tính bướng bỉnh.
- Rất đơn giản: bỏ đói, không nên dùng roi vọt. Bỏ đói rồi cho ăn dần dần từ rất tồi đến tồi, xong chuyển mức tồi sang kém, kém lên bình thường, bình thường lên tạm đủ, tạm đủ lên kha khá, kha khá lên ngon...
- Tôi mua con khỉ này không phải để làm cảnh trong hoa viên đâu. Tôi sẽ dành riêng cho nó tầng 5 với các tiện nghi văn minh. Tôi theo dõi mọi mặt, và thực hành thí nghiệm trên các phương diện tâm lý.
Tôi đang làm luận án tiến sĩ về các vấn đề tâm lý.
- Hóa ra ngài không chỉ là quan chức chính phủ mà còn là một nhà khoa học...
- Vì vậy việc ông bán cho tôi con khỉ giả nhân này rất có ý nghĩa. Nó gián tiếp đóng góp vào sự nghiệp khoa học...
- Đúng giá 150 ngàn, xin bớt 20 ngàn phần đóng góp đó...
*
*    *
Tất cả mọi thứ trên đời này đều phải tuân theo một quy luật: nhịp điệu thăng trầm. Công cuộc kinh doanh của ông Érit Phương cũng không tránh khỏi quy luật ấy. Từ chỗ chỉ là cửa hàng bán mấy con chó ghẻ, mèo hen ông đã có những mặt hàng ghê gớm như hổ báo. Nhưng rồi từ đỉnh hoàng kim, cửa hàng bắt đầu xuống dốc. Ông Érit Phương gặp những không may liên tiếp. Đầu tiên chỉ là vì hôm ấy trời nắng đẹp! Trời nắng đẹp nên có một con rắn độc bé bằng cái dải khoai ra phơi nắng. Nếu hôm ấy không nắng thì con rắn dứt khoát ở trong hang. Vừa lúc ấy người thợ săn thú tài tình nhất của ông Érit Phương đi tới. Con rắn mổ cho người thợ săn một cái vào bắp chân. Con rắn thay mặt rừng thiêng trả thù những tội lỗi của ông với xứ rừng: đã bắt cầm tù biết bao nhiêu đứa con của nó.
Người thợ săn chạy chữa sao cũng vẫn cứ chết. Ông Érit Phương mất cánh tay phải. Tất nhiên là ông tuyển hàng chục tay thợ săn khác, nhưng vô hiệu, làm gì có ai dám mò vào hang cọp để bắt cả ổ cọp đem về như người thợ săn quá cố kia. “Họa vô đơn chí” nguồn thú đã không được bổ sung thêm vậy mà bất ngờ một trận dịch súc vật lan tràn qua cửa hàng “Rừng nguyên thủy - Érit Phương”. Các thứ thuốc vô hiệu. Âu cũng là chuyện trời hại, chúa trừng phạt vì tội ông không chăm đến nhà thờ. Âu cũng là chuyện hợp quy luật nhịp điệu thăng trầm. Ông Érit Phương mất gần hết gia sản, có nguy cơ trở lại điểm xuất phát là mấy con chó ghẻ, mèo hen.
Một bữa kia có một tiểu thư quý phái đến cửa hàng ông.
- Tôi mua một con quạ - Tiểu thư ra lệnh.
- Thưa cô rất tiếc không được hầu cô vì...
- Tôi mua một con quạ - tiểu thư cau có.
Ông Érit Phương năn nỉ:
- Cô nên treo trong hoa viên của mình những con họa mi hay vàng anh kia hơn. Tiếng họa mi, tiếng
vàng anh hót gọi mùa xuân đến, đẹp biết chừng nào, hợp vói cô biết chừng nào. Còn tiếng quạ kêu, gở lắm.
- Tôi có đọc một bài thơ trên báo “Tiếng quạ đen vườn chiều tiễn biệt cánh quạ vàng...” Tôi muốn mua quạ, tôi sẽ trả giá nó bằng giá một con đại bàng.
Ông Érit Phương toát mồ hôi. Khổ thân cho ông. Trong Rừng nguyên thủy này không còn một con quạ nào nữa. Làm sao bây giờ.
Tiểu thư cầm một xấp tiền không đếm đặt lên bàn, rồi ra xe:
- Hai tiếng nữa, tôi sẽ đến lấy quạ, nghe không?
Ông Érit Phương thần người. Mẹ kiếp! Oái oăm thật. Hai tiếng nữa đào đâu ra quạ. Mà món tiền này có nhẽ mua được cả đại bàng thật. Không biết ở đâu ra cái con tiểu thư ngẩn ngơ này. Làm thế nào bây giờ.
Vào giây phút căng thẳng nhất, trước sự kích thích của tập tiền dầy cộm trên bàn, ông Érit Phương bỗng trở thành thông minh khác lạ: “Chúng bay đâu! - ông gọi người làm vang nhà - Ba chân bốn cẳng chạy nhanh lên, đi mua một hộp sơn màu Japan về đây!”.
Thằng ở thực hiện ngay tức khắc.
- Bắt ra đây một con cò to nhất - Ông tiếp tục ra lệnh.
Con cò trắng như một tờ giấy run rẩy trong bàn tay ông chủ, lo lắng cho tấm thân trinh bạch của mình.
- Tao cho mày thành quạ nhé - ông Érit Phương vừa cười khà khà vừa chấm bút lông vào mầu đen rồi quết đều trên khắp thân cò. Cái giống màu hóa học của Japan tốt thật. “Quết vào đâu ăn đến đấy, đen ánh mà lại mỏng tang, trông còn đẹp gấp mấy lần màu lông quạ thật”.
- Thưa ông, để chừa cho nó một khoanh cổ ạ - Thằng ở góp ý.
- Mày không phải dậy tao. Để cho nó một chút trinh trắng, ác cả sao đành. Thế này mày trông đã giống quạ chưa?
- Dạ... giống hệt ạ... Nhưng chỉ sợ khi nó kêu lên, tiếng cò hiền, không ác được như tiếng quạ.
- Ác... hiền... hiền ác... trong một đằng, ngoài một nẻo, ở đời này biết thế nào được hở mày.
- Mày cứ nói với cái con tiểu thư ngẩn ngơ ấy rằng đây là một giống quạ mới phát hiện ra, bắt tận rừng rậm Nam Mỹ về...
Hai tiếng sau con quạ Nam Mỹ được về với chủ mới...
*
*     *
Có lẽ cũng là do quy luật nhịp điệu thăng trầm nên những tháng gần đây cửa hàng “Rừng nguyên thủy Érit Phương” lại bắt đầu phát đạt. Mỗi ngày trung bình ông bán được tới ba con hổ con giống Nam Mỹ.
Thật là con số kỷ lục, ngay cả thời hoàng kim cũng không bằng. Ngày nào trước cửa hàng đại loại cũng diễn ra cảnh những cô vợ vòi chồng như thế này.
- Cưng ơi cưng, cưng mua cho em con hổ Nam Mỹ kia đi... be bé “xưn xưn”... nè...
- Hổ gì mà trông như con mèo già. Chỉ giống có bộ lông vằn.
- Hổ Nam Mỹ nó thế cưng à... Đâu có như hổ châu Á gớm guốc nặng nề. Hổ này là giống hổ mini để chơi mà... giống như chó bông tí hon Nhật Bản có thể để trên lòng bàn tay.
- Thôi được ông bán cho tôi con hổ Nam Mỹ ông Érit Phương.
Cặp vợ chồng ôm con hổ vào lòng.
- Nó không cắn chứ ông?
- Ồ không. Giống hổ mini để làm cảnh mà. Có giống hổ ác và giống hổ hiền.
Đôi vợ chồng ấy đi rồi, đôi vợ chồng khác lại tới:
- Cưng ơi cưng, cưng mua cho em con “gấu trắng Bắc cực kia đi… be bé “xưn xưn” nè.
- Gấu gì mà trông như con chó nhà. Chỉ được bộ lông trắng như tuyết gợi mầu Bắc cực.
- Gấu mini để làm cảnh mà. Đâu có như gấu xứ mình dữ dằn gớm guốc.
- Gấu này không ăn thịt người chứ ông Érit Phương.
- Ồ không... có giống gấu ác và giống gấu hiền. Bà có thể bế nó trong lòng ôm ấp vuốt ve...
Cặp vợ chồng mua gấu đi rồi thì đến cặp vợ chồng mua ngựa.
- Cưng xem, con ngựa vằn đẹp hôn. Khắp mấy trường đua ngựa thành phố mình đâu có thấy ngựa vằn. Giống này chỉ thấy lác đác có ở rừng hoang châu Phi, châu Úc... Sớm sớm em cưỡi con ngựa vằn này phi trong hoa viên nhà mình thì thú biết bao.
- Nhưng anh sợ giá mắc đấy... Ngựa vằn cơ mà...
- Ồ... ngược lại. Giá rất mềm. Cửa hàng chúng tôi rất sung sướng được hầu ông bà - Ông chủ Rừng nguyên thủy quỵ lụy.
- Thôi được để anh têlêphôn gọi cam - nhông đến chở... - Người chồng sung sướng mỉm cười vì đã có dịp được làm vui lòng vợ...
Hổ, gấu, ngựa vằn cứ thế lần lượt ra đi, hết đợt này sang đợt khác. Đêm đêm trong “công xưởng” của Rừng nguyên thủy hàng chục họa sĩ đói ăn đang chờ nổi tiếng, xoay trần ra đánh vật với những thùng thuốc mầu cao cấp của nền kỹ thuật hóa học thần kỳ Japan, đẹp, bóng, bền, không phai, như thật... Với các thùng đó, mèo đồng đang lột xác thành hổ mini Nam Mỹ, chó nhà đang vươn vai hóa thân thành gấu trắng Bắc cực, ngựa thường trở lại giống nòi thủy tổ ngựa vằn của mình ở rừng hoang châu Phi, châu Úc...
Cho đến một hôm...
Một hôm có ba người trẻ tuổi đi chiếc Đátsơn đến cửa hàng Rừng nguyên thủy đặt mua một con khỉ giả nhân, giống như con khỉ ngày xưa cửa hàng đã bán cho ông Tổng trưởng quốc gia giáo dục.
- Thưa quý vị... quý vị chờ cho một tháng, chúng tôi đi tìm nguồn hàng - ông Érit Phương chắp tay kính cẩn.
- Chúng tôi có đọc luận án tiến sĩ của ông tổng trưởng. Trong đó nhiều vấn đề tế nhị của tâm lý học đã được làm sáng tỏ nhờ quá trình quan sát thực nghiệm ở con khỉ giả nhân...
Ba người đi rồi, ông Érit Phương ngồi bóp trán. Mẹ kiếp... Lại nhiều tiền, nhưng lại oái oăm. Bố thằng nào lấy màu tô vẽ từ con khỉ thường thành con khỉ giả nhân cho được.
Nhưng vấn đề là ba thằng trẻ tuổi này có phải là ba thằng nhiều tiền và ngớ ngẩn như con tiểu thư mua quạ kia không? Nghiên cứu cái cứt chó. Không biết chúng thuộc loại gì. Tấp tểnh nghiên cứu hay chỉ là bọn thừa tiền và tò mò. Dù sao thì cũng không được để lỡ cơ hội có tiền.
Một tháng trôi qua.
Đúng hạn ba người trẻ tuổi lại phóng chiếc Đátsơn đến.
- Mời quý vị lên lầu năm, con khỉ giả nhân được nhốt biệt lập trên đó - Ông Érit Phương sốt sắng.
Ba người đem theo chiếc túi du lịch lớn. Cửa phòng lầu năm xịch mỏ, quả nhiên trước mắt họ hiện ra một con khỉ giả nhân nhốt trong cũi sắt.
- Nó nặng bao nhiêu ký?
- Ba mươi.
- Không được thế đâu.
- Được thưa ông, trông nó phải bằng đứa trẻ lên mười chứ kém gì.
- Bao nhiêu tuổi?
- Chín tuổi... Quý vị trông. Con khỉ giả nhân này giống hệt người, hơn hẳn con khỉ lần trước.
Trong cũi sắt, con khỉ oà khóc nức nở làm mọi người lạnh gáy. Đúng là tiếng khóc của người, nấc, cực lên, nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má nhẵn nhụi xuống đôi môi xinh xắn rồi dính vào vành lông xám mốc, bắt đầu mọc từ cằm.
- Sao mặt nó giống người quá vậy ông Érit Phương. Hàm, cằm nhỏ, rõ ràng là hàm của loài đã tiến hóa.
- Thế con khỉ này mới quý... Thế giới sinh vật kỳ lạ lắm. Ông có nghe tin ở công viên Tây Đức có một con đại bàng có gương mặt hệt cô gái xinh đẹp với vành tóc uốn xung quanh không?
Con khỉ giả nhân nhìn ba người khách bằng ánh mắt van lơn cầu cứu.
Ông Érit Phương giậm chân quát mắng:
- Không được buồn, được khóc nghe không. Buồn khóc ba ông đây sẽ ăn thịt mày liền. Phải vui cười lên. Vui cười, đời chỉ được phép vui cười - Rồi ông cười khà khà làm mẫu cho nó noi theo đúng điệu một người đùa cợt với thú nuôi trong nhà.
Một người khác tiến lại kéo chốt chiếc cũi sắt. Con khỉ giả nhân nhảy tót ra ngoài. Ông Érit Phương tái mặt:
- Ông làm cái gì thế? Nhỡ nó nổi xung cắn chúng ta thì sao?
- Chúng tôi có ba người mà lại thua một con khỉ hay sao?
Người khác vẫy con khỉ lại. Anh ta mở hộp thuốc hóa học quết quanh mép, trán, má, cằm, chỗ bắt đầu mọc lông của nó. Chất thuốc làm tan loại keo “dán được cả sắt”, anh bắt đầu bóc từng mảng da lẫn lông của con khỉ.
- Tôi không bán cho các ngài nữa - Ông Érit Phương chồm lên.
Nhưng hai người kia đã khóa chặt tay ông, bất động. Người khách tiếp tục quết thuốc tan keo và tiếp tục bóc da bóc lông con khỉ, bóc da bàn tay da bàn chân và móng vuốt.
Một chú bé mười tuổi trần truồng hiện lên trước mặt mọi người.
- Gia đình bố mẹ em ở đâu? - Người khách hỏi.
Chú bé ú ớ, tay chỉ trỏ, không nói được.
- Ông bắt cóc thằng bé câm này ở đâu ông Érit Phương?
Ông chủ Rừng nguyên thủy muốn ngất xỉu, không nói được thành lời.
Người khách mở túi du lịch lấy ra một bộ lông khỉ hóa học may cắt đúng số đo của ông Érit Phương. Không nói không rằng, cả ba mặc vào cho ông chủ Rừng nguyên thủy. Bộ quần áo lông khỉ có mũ liền, lại được phết keo và dán chặt xung quanh mép, trán, má, và cằm làm cho ông Érit Phương phút chốc trở thành một con khỉ khổng lồ, chính hiệu.
Một chiếc xích sắt vòng hai tay; con khỉ độc lớn nhất từ xưa đến nay, được dắt ra cầu thang. Thằng ở đang đứng trực ở mặt tiền cửa hàng kinh hoàng trố mắt không hiểu chuyện gì. Con khỉ lớn được dìu đi, nó đã gần như ngất hẳn.
Tới cửa chính nhà hàng, người khách xích con khỉ lớn vào cột, quàng cho nó cái biển: “Bán con khỉ này”. Xong đâu đấy ba người ung dung dắt đứa nhỏ trần truồng vừa được lột xác lên chiếc Đátsơn, vù ga...
Phố Nguyễn Du 1985

Dòng sông xưa
T
ừ bến xe phố huyện Trung du, ngược triền đê sông Thương nửa ngày đường đến vùng đồi Trại Dẻ. Ngày ấy tôi đến đây dậy lớp 4 trường làng. Học trò toàn những đứa lộc ngộc lớn gần bằng tôi. Trường dựng trên triền đồi xanh biếc, đó đây um tùm cổ thụ, mái lợp nứa dây leo phủ dày nở hoa dại sặc sỡ, mùa chim “gọi bạn” về đậu ríu ran đùa rỡn với lũ trẻ, dưới lớp “đọc văn” sang sảng thì trên nóc chúng hót líu lo. Có lần tôi bắt gặp một con “họa mi” khác thường, nhại tiếng trẻ con học bài làm cả lớp cười ngặt nghẽo.
Chớm lạnh, khi núi đồi ngập chìm trong sương trắng ban mai và vàng rực trong nắng hanh chiều là lúc đến mùa dẻ rụng. Hạt dẻ nâu bóng như hạt cườm nứt khỏi vỏ gai rơi lẩn dưới gốc cỏ xanh. Nắng hanh già, vỏ gai nứt lách tách râm ran. Tôi thích lang thang dưới các tàng dẻ cổ thụ, chìa tay hứng hạt dẻ rơi. Hoàng hôn, sương núi tím lạnh, nhóm một đống than hồng, bốc hạt dẻ ném vào, dẻ chín nổ lụp bụp bắn tung tóe. Hạt dẻ đầu mùa tan trên đầu lưỡi thơm ngon khác lạ.
Tôi đã ở đây, một mùa dẻ rụng. Ngày lên lớp, đêm về bên cửa sổ chấm bài xong, thì ngồi tự học tiếng Nga. Học cắm học cúi, như nuốt lấy từng chữ. Phát âm chắc sai toét nhưng từ ngữ thì nhớ như biên.
Những cô gái Trại Dẻ đẹp hơn con gái đồng chiêm chân tay dầm bùn quê tôi. Đồi cỏ sạch tinh. Chân tay các cô nuột nà trắng nõn. Đồng bằng làng cổ chật chội, lề thói khuôn phép. Trại Dẻ đất mới con người chạy nhẩy giữa đồi rừng mênh mang, tính tình cũng phóng khoáng tự do. Các cô chả e dè như con gái dưới xuôi. Các cô không biết làm duyên làm dáng, chỉ có sự hồn nhiên, ngây ngô, tình thật...
Con sông Thương thượng nguồn có bãi cát sạch, núi lượn sát sông. Nước êm đềm xanh biếc. Chiều hè các cô gái Trại Dẻ rủ nhau ra tắm, bơi lội vẫy vùng. Tôi còn biết tắm ở đâu ngoài bãi cát này. Đầu tiên tôi tắm xa xa, bơi vẩn vơ một mình như con cá vàng lượn lờ. Các cô gọi:
- Thầy giáo ơi, bơi lại gần đây.
Hì, thế mới thích chứ. Họ hồn nhiên lắm mà.
- Thầy giáo mặt búng ra sữa chúng mày ạ.
- Láo, gọi là thầy giáo trẻ chứ lị.
- Còn bú tí mẹ chả trẻ thì già với ai! - Tiếng cười của các cô vang cả bờ sông.
Các cô tắm trần, bơi nguẩn ngoang lặn hụp như đàn ngỗng trắng. Tôi ngây dại cả người, mon men lại gần.
- Thầy giáo bơi thi với chúng em nào. - Các cô rủ. Tôi bị vây trong đội hình. Hai ba nào, cả đoàn lao đi, vẫy nước tì tùm, cười nắc nẻ. Tôi phải vượt lên trước cho đáng mặt nam nhi. Nhưng các cô kéo lại. Thi với cử thế đấy. Ba bốn cô ôm ghì lấy cổ tôi. Đôi tay trần và đôi vú áp chặt. Mục đích ghìm lại. Tôi giẫy ra hụp túp xuống, như tầu ngầm lao qua sườn các cô để nhô lên ở phía đích. Đời nào con giai lại chịu thua con gái. Các cô tru tréo:
- Không kể hụp ngầm. Thầy giáo ăn gian...
Các cô quây tròn túm lấy tôi dìm xuống cho uống nước sằng sặc. Không sao trồi lên được. Húc đầu chỗ nào cũng chạm ngực các cô.
Bơi thi thế kể cũng khoái. Chả biết có bể bơi quốc tế nào vậy không...
Tôi không muốn rời Trại Dẻ tý nào. Ty giáo dục mấy lần định cho tôi về tỉnh, bồi dưỡng sư phạm cho “trưởng thành”.
Tôi không muốn “trưởng thành”, cứ muốn là “trẻ con” mãi cơ...
Mùa xuân các cô gái Trại Dẻ hay rủ tôi vào rừng hái măng hái nấm, nhặt trám. Đi từ sáng tinh mơ, cả ngày lang thang trong rừng. Trưa, ăn cơm nắm với thịt thỏ nướng bắt được tại chỗ, uống nước trong ống mai non mát lịm.
Hình như tất cả các cô đều yêu mến tôi. Nhưng tôi phải tìm một “đối tượng tìm hiểu” chứ. Chỉ được yêu một người thôi chứ. Cô nào cũng đẹp. Biết chọn ai. Tôi nhắm mắt “thiên địa vận”, chọn bừa một người. Cô Ban. Buổi đi rừng hôm ấy tôi rủ Ban ra chỗ vắng bên bờ suối. Tôi ôm Ban hôn. Định hôn xong rồi thì nói: “Từ nay em là người yêu chính thức của anh”. Nhưng chưa kịp mở mồm đã thấy cây lá rẽ rào rào, các cô khác ào đến đầy vẻ giận dỗi, lườm nguýt. Một cô thô bạo kéo thẳng cánh Ban ra xa, không cho đứng gần tôi. Suốt từ đấy, buổi đi hái măng không khí nặng như chì, chẳng vui tí nào. Ban bị canh chừng không cho bén mảng đến gần tôi. Không làm sao tiếp cận được Ban. Tôi nản quá, phải hỏi thật:
- Thế các cô cho tôi yêu ai.
- Chẳng được yêu ai cả - Các cô không úp mở.
Thế mới lạ chứ. Xem ra con gái Trại Dẻ xứ rừng còn ngô nghê lắm, chả biết thế nào là tình yêu, còn trẻ con cả lũ, chỉ được cái nở nang, lớn xác.
Còn tôi ở đồng bằng nên khôn hơn nhiều. Phải dậy cho họ biết thế nào là tình yêu. Tôi quyết định chọn cô khác. Cô Thanh. Kế hoạch: Rủ một mình Thanh vào rừng. Trại Dẻ có con thác nhỏ, nước bụi mờ. Tôi với Thanh sẽ cởi quần áo đứng cho dòng thác bụi chẩy xuống người. Rồi té nước, đùa rỡn nhau. Chỉ mình tôi với Thanh và con thác, thế thôi...
Hò hẹn chuẩn bị sắm nắm từ hôm trước, sáng sau, đúng hẹn ra ngã ba đợi. 7 giờ sáng, Thanh xuất hiện. Tôi mừng rỡ chạy lại. Nhưng kìa, từ sau bụi cây cả chục cô mặt sưng mày sỉa bước ra theo.
- Sao họ biết kế hoạch riêng của anh và em - Tôi hỏi Thanh.
- Em bảo - Thanh hồn nhiên trả lời.
Thế này thì còn ăn thua gì nữa. Kế hoạch tình yêu của tôi đành “phá sản” vậy thôi...
Chiến tranh nổ ra. Máy bay địch bay qua bay lại trên đầu gầm rú ghê sợ. Tiếng bom ở xa âm âm vọng về lan trên mặt sông êm ả. Người ta phát hiện ra tôi “đọc báo tiếng Nga làu làu” nên gọi về sân bay quân sự, cho mặc áo lính, làm chân phiên dịch.
Chiến tranh không phải trò đùa. Tôi đành phải ra đi. Hôm chia tay, con gái Trại Dẻ lẽo đẽo đi tiễn cả chục cây số không rời. Lúc xuống đò từ biệt, chúng khóc. Khóc oà như trẻ con chứ không phải khóc kiểu “giấu lệ vào trong” khi tiễn người ra trận.
Tôi mặc áo lính vài năm. Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. Áo lính đẫm mồ hôi, đất và máu. Rồi tôi được cử đi nước ngoài để chuẩn bị cho ngày hòa bình. Tôi lao vào học khoa học. Đánh nhau cái chết kề bên còn được, chứ học thì khó gì. Tôi đạt đủ bằng cấp học vị cao rồi về nước. Vừa trực tiếp nghiên cứu khoa học, vừa làm viện trưởng một cơ quan khoa học. Công việc bận mê tơi. Cái bận nữa không kém là lấy vợ, đẻ con, nuôi con ăn học, làm nhà dựng cửa.
Những thập niên bận rộn cứ bay vèo, như lá vàng qua cửa sổ. Thoắt cái kinh hãi tôi thấy mình tóc đã pha sương. Rồi một hôm “hợp đồng cuộc đời nhiệm sở” đã hết, vụ tổ chức cán bộ gọi lên thông báo quyết định về hưu. Tôi bàng hoàng. Tôi giận hờn với cấp trên. Đấy, rời tôi ra xem cơ quan sẽ như thế nào. Tôi thắc mắc là tại sao đời lại bỏ phí chất xám đến như thế. Cầm quyết định về hưu, không nghỉ lấy một ngày, tôi lao vào một đề tài công nghệ, rồi gạ làm thuê cho Công ty trách nhiệm hữu hạn, cho Viện nghiên cứu, dạy thuê cho trường Đại học v.v... Tôi làm để cho mọi người biết năng lực của tôi là thế nào!
Nhưng chỉ được một, hai năm, cảm giác mệt mỏi hững hờ xâm chiếm lúc nào không biết.
Một buổi, ngồi soạn lại đống an bum kỷ niệm, vẫn vứt hàng đống trong tủ. Tuyết trắng, lá phong vàng, chàng sinh viên trẻ áo khoác bùng nhùng trước cổng trường Đại học Lômônôxốp. Tôi đấy. Đại hội, ông viện trưởng trang nghiêm đọc báo cáo trước dàn micrô tua tủa. Nụ cười, cái bắt tay, cốc rượu sóng sánh, trong các buổi hội thảo khoa học quốc tế. Tôi đấy. Và tôi trong muôn vàn bức ảnh với bối cảnh đền đài, danh lam
sau lưng...
Tôi bồi hồi nhớ lại từng đoạn đời mình. Không có tấm ảnh nào về những ngày ở Trại Dẻ. Nhưng một dòng sông trong vắt chợt dào dạt reo vang lên trong ký ức làm tôi ngẩn ngơ.
Sáng hôm sau buộc ba lô vào xe máy, tôi lên đường. Từ bến xe phố huyện trung du tôi đi vào quá khứ. Con sông ngày xưa, tưởng như bây giờ bớt xanh trong hơn. Và không thấy long lanh. Triền đồi Trại Dẻ vẫn dịu dàng ăn lan ra bờ sông, với bãi cát trắng, nhưng bãi cát cũng thấy không lấp lánh. Tôi đứng ngắm dòng sông trong nắng chiều vàng. Đó đây cũng thấy bóng các cô gái ra tắm. Nhưng tất cả lặng lẽ. Tôi quyết định cởi quần áo dìm mình trong kỷ niệm. Lủi thủi bơi đi bơi lại một mình. Chả ai thèm để ý. Chả ai thèm gọi.
Lên bờ, tôi tìm cách bắt chuyện một cô gái ra sông gánh nước.
- Quê mình giờ còn nhiều cây Dẻ không?
- Còn chứ. Ông muốn mua hạt dẻ phải đợi đến đầu đông.
- Cô có biết bà Ban, bà Thanh làng này.
- Không biết.
Cô gái quẩy gánh đi. Tôi đứng vẩn vơ. Cuối chiều, mọi người đi làm đồng về. Những người đàn bà gày gò, chân lấm bùn, quần đen vo quá gốỉ, mặt mũi xạm nắng gió khắc khổ. Họ đưa những cặp mắt tò mò nhìn tôi. Trong đám kia có ai là Ban, là Thanh, là những cô gái lớn xác ngây ngô hồn nhiên, xinh đẹp thuở nào. Làm sao họ nhận ra tôi. Cũng như tôi không nhận ra họ nữa.
Tôi đến trường tiểu học Trại Dẻ nghỉ trọ qua đêm. Sáng hôm sau lại ra cổng làng ngắm những người đàn bà đi làm. Nhất định trong đó phải có một trong những cô gái ngày xưa từng ôm chặt lấy tôi trong cánh tay nõn nà không cho tôi vượt lên trong cuộc bơi thi, và lấy ngực mình đè đầu tôi xuống cho uống nước sằng sặc, rồi cười vang.
Tôi có nên vào làng, hỏi thăm từng nhà, từng người, hỏi thăm bà Ban, bà Thanh, nói chuyện ngày xưa. Không, không nên. Để làm gì? Thời gian đã đi qua không bao giờ trở lại. Đời người ta, tuổi trẻ tươi non, ngây thơ trong trẻo, chỉ có một lần, như ánh sao băng, vụt qua rồi mất.
Tôi đề nghị ông Hiệu trưởng trường tiểu học cho tôi lên lớp một bài Tập đọc lớp 4. Ông trịnh trọng
giới thiệu đủ chức vụ, học hàm học vị của tôi, làm lũ trẻ háo hức. Nhưng rồi chúng cũng nhanh chóng thất vọng thấy giọng đọc khàn rè của tôi, không trong trẻo náo nức như giọng thày giáo trẻ của chúng. Tôi lắng nghe, cũng có tiếng chim trên mái lớp, nhưng không thấy hay như ngày xưa. Không có tiếng họa mi nhại tiếng đọc bài.
Buổi cuối cùng ở Trại Dẻ, tôi quyết định vào rừng hái măng hái nấm. Rủ mãi chỉ được ông Hiệu trưởng cùng đi. Hái nhặt qua loa, lúc về say nắng. Măng và nấm nấu lên ăn cũng thấy bình thường không ngon như ngày trước.
Nhưng thôi thế là tôi đã trở về dòng sông ngọn nguồn trong vắt của đời tôi. Làm sao sống lại nguyên vẹn những gì của ngày hôm qua... Sáng hôm sau, tôi lên xe về thành phố. Dòng sông từ ấy trong tâm khảm mãi reo vang...
1998

Phong thánh
S
au mưa, nắng hừng lên trên dãy đá xám trập trùng mà tất nhiên là lại có cái truyền thuyết chán nhàm để làm cho người ta tiếc rẻ, là có 99 ngọn cho 99 con phượng hoàng, thiếu một ngọn cho con đầu đàn đỗ và thế là miền đất này mất cơ hội trở thành kinh đô.
Ông già Phạm Khắc mở cửa sổ ngôi “Thừa Lương các” giữa lưng chừng núi, nhìn xuống. Nắng vàng, đá xám, dòng sông xanh, con đường đỏ, ngôi chùa cổ um tùm đại thụ nằm lọt giữa thế rồng chầu của xứ “Thập vạn đại sơn”.
Gió mát có mùi trầm và hoa huệ. Ông Phạm Khắc ngắm cảnh, vuốt chòm râu “Hải Thượng Lãn Ông”, trầm ngâm. Chợt nắng chói làm mắt ông già nheo lại. Trên dốc, một bóng người đang lên Thừa Lương các. Ai? Ông già Phạm không tiếp ai vào các buổi sáng. Dân trong vùng đồn rằng đó là lúc ông đang “tĩnh tọa, tĩnh tâm luyện phép tiên”. Với những hiệu quả trông thấy nhỡn tiền của phép chữa bệnh nhiệm màu, bí hiểm, ông già gần như đã trở thành thánh nhân. Những người trần mắt thịt thực lòng yêu thích đã thêu dệt ông thành một bậc “cứu nhân độ thế” cái cõi đời hiện thực đầy đau khổ, để thỏa mãn trí tưởng tượng, ước mơ của mình.
Cửa “Thừa Lương các” mở. Khách là một thanh niên từ thành phố tới. Cao lớn, khôi ngô; thoáng nhìn đã thấy đó là khuôn đúc thứ hai của ông già.
- Cha - Người con trai kêu nhỏ.
Ông già đưa mắt nhìn quanh, không có ai, mới bước lại.
- Lâu lắm không thấy con. Vẫn khỏe mạnh bình thường chứ.
- Thưa vâng...
Người con trai đỡ chén trà từ tay cha:
- Trông cha ngày một đẹp lão. Râu tóc trắng bông. Dưới thành phố, khắp bàn dân thiên hạ nói đến “Ông tiên trên núi Bích Động” và phép chữa bệnh nhiệm màu. Người thường thì cứ tin đó là thánh cho tiện, gọn, khỏi lý giải lôi thôi. Sự bất lực của khoa học trước nhiều bí ẩn của thiên nhiên, đã phục hồi ít nhiều niềm tin thần thánh gần như có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn khi khoa học ở thời kỳ mới phát triển được coi như vạn năng. Người có chữ nghĩa thì giải thích chuyện chữa bệnh của cha bằng thuyết “Trường sinh học”... Nói tóm lại là cha nổi tiếng lắm. Cha càng nổi tiếng thì con lại càng phải giấu kỹ tung tích mình...
Ông Phạm Khắc cười kiểu đùa “trí thức”:
- Tất nhiên đã trót thành tiên ông rồi, bây giờ lại lòi đuôi ra là có một đứa con “trần tục” thì cả là một sự khôi hài. Vậy là cứ phải cha một nơi con một nẻo, giấu kỹ quan hệ cho đến lúc xuống mồ.
- Hay là bây giờ ta công khai tất cả, trở về làm người thường.
- Không thể làm người thường được nữa. Cha đã trót đóng vai kịch cuộc đời của mình rồi. Mỗi người trên đời là một vai kịch. Không khác đi được, khác đi là không có đất tồn tại.
- Cha ạ. - Người con trai đã uống hết chén trà - Vừa rồi con có nghe Đài Thiên chúa giáo Manila thông báo Vaticăng đã quyết định phong thánh cho hơn một trăm chân phúc tử đạo Việt Nam, từ thời Kytô giáo vào nước ta dưới triều Nguyễn đến nay... Cụ cao cao tổ tỷ dòng họ nhà ta Têrêxa Vũ Thị Từ Chinh là một người có tên trong bảng danh sách ấy.
- Chính tai con nghe? - Ông Phạm bàng hoàng.
- Vâng, đài đọc rõ tiểu sử, quê hương bản quán, công tích... Vậy là giòng họ nhà ta có đất “hiển thánh”, hở cha. Cha thành tiên ông... Cụ tổ được phong thánh, tôn vinh thờ phụng trong giáo hội toàn cầu.
Ông Phạm lặng lẽ, mắt nhìn lướt trên những đỉnh núi mờ xa của dãy “Thập vạn đại sơn” trập trùng.
- Âu cũng là những vai kịch cuộc đời phân cho phải đóng!...
*
*     *
Tương truyền bà tổ Vũ Thị Từ Chinh là người khác thường. Xinh đẹp, cao lớn, dữ dội, nồng nàn. Sức vóc võ nghệ quật ngã đàn ông như nhái, ghì chặt sừng trâu trong tay mà trâu mất cựa.
Tuổi đôi mươi bà vẫn chưa chồng. Ngữ ấy phải lấy một ông “Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng thân mười thước cao”. Nhưng đào đâu ra loại ấy. Bọn “dài lưng tốn vải” ẻo lả trong vùng thì chỉ thích kén một thục nữ đoan trang hiền dịu. Nếu gặp thời gặp vận, Từ Chinh có thể trở thành nữ tướng, vậy mà đành sống mòn trong lũy tre làng với cầu ao xó bếp, mảnh vườn, nương dâu...
Nàng Từ Chinh chán dần những lời đồn đại về mình, nàng xa lánh, và dường như muốn học cách nhu mì hiền dịu giới tính đàn bà.
Năm đôi tám tuổi, không ai ngờ Từ đột ngột lấy một anh Tú trói gà không chặt, và đứng kiễng chân cũng chỉ đến tai nàng.
Anh Tú áo dài, nón chóp, quạt lụa đề thơ, ra vào lững thững trầm tư. Nhưng đích thực là thằng vô tích sự. Giời mưa không mó tay cất váy vợ, “Quân tử viễn bào trù”, không biết nấu nồi cơm. Việc chính là học thi, nhưng cứ trượt vỏ chuối đều đều.
Từ Chinh một mình gánh vác giang san nhà chồng, làm nhà dựng cửa, nuôi con nuôi chồng, mọi sự tinh tươm đâu ra đấy. Khi ông Tú tuyệt vọng đường khoa cử, trở thành gàn dở bất đắc trí, nhưng vẫn quen trà quen tửu, quen đàn đúm bạn bè nho sĩ để khóc cười chửi đổng cái sự đời; thì nàng Từ càng dịu dàng, nhẫn nhục, hy sinh, để vun vén cái hạnh phúc đời thường quê kiểng.
Đời chỉ là như thế. Sức vóc trí lự đến như nàng còn chả ăn ai, huống hồ cái thân nho sĩ mấy chữ ruồi bâu!
Nhưng con tạo đâu có để cho người ta yên phận! Cái ông Tú gàn, tưởng cùng cố thây, cứ chửi đời thả cửa cho sướng mồm, nào ngờ một hôm Đời sờ đến gáy. Đang yên đang lành ông lăn đùng ra nhà, miệng nôn trôn tháo, mặt xám ngoét như tàu khoai béo.
“Quan ôn” đã mò đến làng.
Chỉ trong vòng vài tuần, mà nhà nào cũng có người chết.
Chết không kịp chôn. Những người chết đầu còn có áo quan đóng bằng cánh cửa. Sau thì bó chiếu. Đến lúc chiếu cũng hết, cứ thế vùi xuống đất.
Nhưng dù sao được chôn cũng còn là may. Bởi vì sau đó cũng chẳng ai chôn ai. Ai cũng “bận” ở nhà để chết.
Xác người chềnh ềnh khắp nơi trong sân, ngoài ngõ, gốc chuối, bờ ao.
Từ chôn chồng chôn con không một tiếng khóc. Rồi nàng dọn dẹp nhà cửa tinh tươm, rắc vôi bột xung quanh, ngày đêm đốt lửa, mỗi tuần uống một liều thuốc phiện. Chả biết vì thế, hay vì thể chất đặc biệt của Từ mà “Quan ôn” không dám động đến nàng.
Làng dịch không người, nắng vàng hoe trên các sân ngõ vô chủ. Từng đàn ruồi bay lên như những đám mây. Quạ kéo về xập xòe đậu xuống các xác người khoét mắt. Cú, chim lợn kêu cầm canh đêm đêm. Chó nhà thành chó hoang gặm nhai cẳng chân cẳng tay người rau ráu và hú như chó sói.
Mặt trời sớm như miếng tiết, chiều vàng như hoa hòe, chưa tối sương đã giăng mờ đục.
Từ Chinh mò mẫm các nhà. Vườn nở rộ, hồng đỏ chói, cúc vàng tươi, trái chín lúc lỉu. Gà vịt đi hoang. Trâu bò húc đổ nhà rút mái gianh ăn rạ. Từ qua chùa, mạng nhện chăng trên tượng Phật vàng chóe. Không hoa quả, chẳng khói hương. Mắt Phật nhỏ ti như khép như ngủ, mặc kệ chuyện ngoài đời. Ông Thiện chẳng cứu được ai. Ông Ác ma quỷ quan ôn không sợ.
Gió trút lá đa ào ào ngập lối. Nàng lại lững thững đi trên con đường mà cầy cáo, chồn hoang cũng thản nhiên bước dạo.
Cánh đồng xa tít ngằm ngặp nắng vàng, lúa chín rũ, héo quắt. Những lũy tre xa tít tịch mịch. Đấy cũng là những làng chết.
Nàng đi, tìm lấy một người còn sống. Bước chân vào cổng làng lạ, Từ giật mình nghe tiếng gầu va thành giếng. Vạch hàng rào hoa tầm xuân, trèo bờ tường đá, trước mắt nàng hiện ra một khu vườn bồng lai. Quýt đỏ ối như đèn treo. Cam trĩu trịt. Lối sỏi viền hoa hồng. Trên phiến đá xanh giữa nệm cỏ có một chàng trai nằm lim dim sưởi nắng, da thịt trần trắng hồng. Quýt chín rụng xuống khe đùi chàng và vỡ nát trên đá.
Nàng đã tìm thấy một người sống. Tìm thấy một đồng loại. Trên mặt đất này bây giờ chỉ có hai người: Chàng và Nàng.
- Anh sống đấy à?
- Cô cũng không chết?
Từ Chinh nhảy tường vào vườn. Có một con rắn hổ mang trườn trong cỏ, ngóc cao đầu đến gần, chẳng buồn sợ người.
Trên cái mặt đất mênh mông này mà chỉ có một mình mình sống thì đáng sợ thật! Từ Chinh thở dài, ngồi xuống phiến đá cạnh chàng trai.
Nắng rực rỡ, bướm bay đầy vườn sà đậu xuống cỏ biếc. Từ Chinh tắm, da thịt nàng như tráng bạc dưới nắng. Tiếng gầu va tùm tùm thành giếng, vang động. Âm thanh của sự sống.
Tắm xong nàng thấy cũng chả cần mặc lại bộ quần áo mồ hôi bụi bặm nữa. Mặt đất này có còn ai đâu. Da thịt ướt đẫm nước giếng bốc hơi ngùn ngụt trong nắng. Tấm thân nữ lực sĩ lừng lững như tượng đá trắng của nàng lần đầu tiên được khoe bầy giữa trời đất không người.
Chàng trai trẻ bíu lấy cổ nàng. Nàng công kênh chàng lên vai, để chàng vươn tới cành cao trẩy những trái ngon nhất. Quýt ngọt lịm, ăn tỉnh người. Phiến đá thành giường của họ. Cả mặt đất mênh mông không chủ, thành giường của họ.
Hai hôm sau chàng trai chết. Lại chết! Thế mới buồn chứ... Hay là mặt đất này không phải cho con người? Từ Chinh ngao ngán. Cuối cùng nàng đành mặc lại bộ quần áo bụi bặm cũ, nhảy vượt tường ra đi.
Chân trời xa tít trước mặt. Mặt đất này lại chỉ còn mỗi mình nàng...
Bẩy năm sau nàng mới ôm con tìm đưòng trở về quê cũ. (Đứa con từ phiến đá trong vườn Bồng Lai).
Bẩy năm, nàng lang thang, túp lều khi bên cửa rừng lộng gió chỉ có hươu vàng trăng biếc, khi bên bờ suối tinh khiết trong xanh. Nàng quá sợ cái mặt đất ồn ào bẩn thỉu và dịch bệnh.
Làng cũ lại đông đúc như xưa. Nhanh thật. Khi dịch qua đi, dân tứ chiếng đổ xô về như nước chảy chỗ trũng, chiếm nhà, chiếm đất, chiếm ruộng vườn. Ai nhanh chân được nhiều, ai chậm chân được ít. Vùng dịch mất chủ, lại có chủ mới.
Và làng bây giờ lại hệt làng xưa. Lại tiếng gà cục tác trong nắng trưa, tiếng lợn ủn ỉn đòi cám. Lại ông xã trưởng khăn xếp áo dài the, tay cầm hèo đứng cửa sân đình. Lại thầy đồ gàn gân cổ chửi đời. Lại đám cưới môn đăng hộ đối, nhà trai nhà gái “so gốc rạ” (diện tích ruộng). Lại tiếng mõ rao, mời các cụ thượng ra đình ăn khoán đàn bà chửa hoang. Lại tiếng vợ chanh chua chửi chồng như hát hay, tiếng chồng vũ phu đánh vợ huỳnh huỵch. Lại những cơn dịch đậu mùa, hàng loạt trẻ con mặt rỗ như tổ ong bầu. Lại tuần tháng bẩy cúng cháo thí, cháo múc bồ đài lá đa cắm la liệt ven đường cho vong hồn kẻ khó...
Nàng Từ Chinh khó khăn trong việc đòi nhà, ruộng, vườn. Kẻ chiếm là một tá điền thiên hạ, một chú Giáp Ất nào đó với cô vợ vốn là vú em nhà chủ.
Từ Chinh kiện cáo lên quan, quan xử chia đôi. Nàng đành phải chấp nhận. Hai nhà giáp nhau hục hoặc như chó với mèo.
Cái Gái con (con chú Giáp Ất) cùng tuổi với thằng Tý con (con Từ Chinh) đứng ngoài vòng mâu thuẫn của mẹ cha, suốt ngày tha thẩn bên nhau chọi dế, bắt chuồn chuồn, đào hang bắt chuột, nu na nu nống. Hục hặc nhau chán, hai gia đình lại đành phải “tối lửa tắt đèn có nhau” biếu xén nhau bát tương đĩa cà, xin nhau tý lửa đống rấm lúc sớm mai gà gáy.
Từ Chinh bật cười thấy bọn đàn ông từ ông Xã, ông Nhiêu, đến cả chú Giáp Ất cũng lấm lét thèm thuồng và gạ gẫm tấm thân voi cái góa bụa của nàng. Nàng thường thẳng tay đấm đá tát tai đuổi bọn chó dái rồi thở dài.
Vô nghĩa tất cả, cõi đời này. Nàng tự giễu mình về sự kiện cáo tranh giành ban đầu với chú Giáp Ất, rồi tự động cho chú thêm một mảnh vưòn, khiến chú tưởng nàng “cảm” mình, sướng phát điên lên, nửa đêm so vai rụt cổ gõ cửa, để rồi sau cái ân huệ được mảnh vườn là cái đạp ngã đứ đừ lăn từ hè xuống sân đầu sưng bằng quả ổi.
Nàng toan bỏ làng dắt con ra đi. Nhưng đi đâu bây giờ? Đâu cũng là gầm trời này.
Đúng lúc ấy, một hôm có một con thuyền đinh mạn bể ngược dòng đậu bến sông làng. Từ thuyền bước lên một người Tây Dương cao lớn, tóc vàng, mắt xanh, râu dài, mũ áo chùng đen, hình chữ thập bạc lấp lánh trước ngực.
Dăm ba người tùy tùng theo hầu. Người Tây Dương nói tiếng An Nam xưng là sứ đồ đi rao giảng tin lành của Chúa Trời. Ông đem theo muối của miền bể; đèn Hoa Kỳ dầu tây (thay cho dầu lạc), máy lửa (thay bùi nhùi), thuốc viên... biếu tặng mọi người. Từ Chinh thích người Tây Dương trước hết ở vóc người cao lớn giống nàng. Nàng lắng nghe ông đọc từ cuốn sách dày cộp trên tay:
“... Đây là Sáng thế ký của Moi Se trong Cựu ước... Ban đầu Giêhôva Đức Chúa Trời dựng lên trời đất... phán rằng phải có sự sáng, thì có sự sáng... Đặt tên sự sáng là ngày, sự tối là đêm... Ấy là ngày thứ nhất”. Chuyện “Cổ tích” của ông sứ đồ thật hấp dẫn. Ngày xửa, ngày xưa... Vườn Eđen có cây “sự sống”, cây “biết điều thiện điều ác”... Ông Ađam và bà Eva ăn trái cấm. Tại con rắn xui. Chúa sợ người ăn nốt trái “sự sống” thì sẽ bất tử như Chúa, nên đuổi họ đi, bắt con người phải khổ cực nhiều thứ nơi trần gian.
Nàng Từ Chinh bàng hoàng. Lần đầu tiên nàng nghĩ đến chuyện ấy. Ừ, tại sao lại có giời đất cỏ cây... Và giống người ở đâu ra? Tại sao loài người lại khổ cực trăm đường thế này... Nếu không có tất cả mọi thứ trên đời, nếu không có loài người có phải hay hơn không?
Nàng càng giật mình hơn. Vườn Êđen có ông Ađam và bà Eva trần truồng... Cái vườn đầy cỏ biếc, hoa hồng với phiến đá xanh là giường của chàng trai và nàng thuở nào... Nàng đứng cho chàng trai níu cổ, công kênh lên trẩy trái quýt ngọt... Trái cấm đấy chăng! Trời ơi... lại cũng có cả con rắn y như trong kinh thánh nói... Hay là chính người Tây Dương kia đã nhìn thấy nàng trong vườn quả, rồi dựa vào đó mà tả nên cảnh vườn Êđen. Nếu không, sao giống nhau đến thế được.
Cha truyền giáo đọc hết sách Cựu ước thì đọc sang sách Tân ước. Cha vẫn kể chuyện “cổ tích” về cái ngày phán xử cuối cùng, ai có đức tin ở chúa Kitô thì được lên nước Chúa trên thiên đàng, được Chúa lau sạch nước mắt, nước mắt không bao giờ còn phải nhỏ nữa. Ở đấy là “trời mới đất mới” với Đấng ngự trên ngôi phán: Ta làm mới lại hết thảy muôn vật... xong rồi, ta là Anpha và Ômêga nghĩa là đầu tiên và cuối cùng.
Đêm tối không còn nữa, dân chúng cũng không cần đến ánh sáng đèn hay áng sáng mặt trời... Vì đã có Chúa tỏa sáng... Ở đấy mọi người uống nước “sự sống” trong như lưu ly từ ngôi Chúa Trời và Chiên con chảy ra có cây “sự sống” trổ mười hai mùa quả mỗi năm.
Cha truyền giáo đọc thơ Phao lồ khuyên một câu tóm tắt “Hãy ham muốn các sự ở trên trời, đừng ham muốn các sự ở dưối đất...”
*
*    *
Gia phả chép rằng: cụ cao cao tổ tỷ Từ Chinh là người đầu tiên của làng này quy đạo Kytô, góp nhiều công của để dựng lên ngôi nhà thờ lợp gianh cho mọi người đến học vỡ lòng Kinh thánh.
Bà thẳng tay phá bỏ bàn thờ gia tiên lập bàn thờ Chúa. Bà cũng là người đầu tiên đeo vào cổ cây thánh giá có tượng Chúa chịu nạn, và không ngượng ngập mỗi lần mở miệng “Amen...”
Chuyện bi thảm diễn ra ngay sau khi dân quy đạo chưa hết há hốc mồm tò mò nghe “cổ tích” Kinh thánh. Quân lính nhà vua kéo về triệt phá xứ đạo, cấm Kytô giáo; chém đầu các cha truyền giáo.
Bà Từ Chinh bị dính líu vào vụ che giấu Đức Cha người Tây Dương, bởi bà không hiểu sự oái oăm sau bước đi của người rao giảng tin lành là bước đi của kẻ mang tin dữ. Đạo đã bị lợi dụng làm phương tiện cho ngoại bang do thám xứ sở.
Bà Từ Chinh bị quan lính nhà vua chém đầu bêu giữa chợ.
Trời không giết nổi Từ qua trận dịch toàn vùng, mà chính giấc mộng ngây thơ của Từ giết Từ.
Chú Giáp Ất hàng xóm thừa cơ, được dịp, chiếm nốt toàn bộ ruộng vườn nhà cửa của bà. Thằng Tý, con nàng mất nơi nương tựa, đành phải trở thành thằng ở cho chú Giáp Ất. Từ chỗ là bạn hàng xóm với Gái con thành người ở của Gái con.
Thằng ở là thằng ở, quét nhà, rửa bát, chăn trâu, cắt cỏ...
May sao chú Giáp Ất chẳng có con trai, nên nhìn xa trông rộng, về già lại phải dựa vào thằng bé này. Thế là thằng ở trở thành thằng rể ở rể. Người ở của Gái con trở thành chồng Gái con.
Năm tháng qua đi, vợ chồng chú Giáp Ất chết. Tý con lên vai ông chủ, chủ nhà, vườn, ruộng, lại nguyên si mọi thứ của bà Từ Chinh hồi nào.
Vợ chồng Tý con hay lam hay làm, nhưng vẫn là cảnh nhà “tương cà gia bản” mặc quần nâu, đắp chiếu rạm muôn thuở của dân quê.
Con giai của Tý con lạ thay, mặt mũi đen đủi, nhưng sáng dạ khác thường. Giống hệt chuyện “người Thừa cung chăn lợn”, thằng Cống (tên nó) chỉ lân la đến chơi “nhà tràng” xem các anh học trò lớn xác nằm xoài ra đất ê a Tam tự kinh, mà nó thuộc trước cả các anh. Thầy đồ ngạc nhiên gọi vào cho học không lấy tiền, chỉ mỗi ngày bắt xay hộ cô đồ cối thóc nếp hàng xáo.
Ai đặt tên cho nó là Cống nhỉ! Cống rãnh, chẳng hay ho gì! Nhưng lại là điềm giời báo trước: ông Cống là ông đậu cử nhân! Một bước thi nữa thành tiến sĩ.
Từ ngày bận học, Cống không chăn trâu cắt cỏ giúp mẹ được nữa, nhà Tý con bấn quá, và học đâu phải ít, hơn chục năm. Chục năm cứ “dài lưng tốn vải” suốt ngày đọc sách. Khi Cống phải lên tỉnh theo lớp Đại tập của cụ nghè Móm thì nhà Tý con khánh kiệt thực sự! Nhưng bắt con bỏ học thì tiếc. Nó thông minh khác người. Thôi thì đâm lao phải theo lao. Sáng học, chiều đơm đó, đánh rậm lấy tiền mua dầu đèn. Dầu lạc chẳng có một giọt mà ăn, nhưng lại cứ đốt chong chong cả đêm. Ánh sáng đắt quá, thật là “xa xỉ phẩm” hạng nhất.
Vấp vào mấy vụ mất mùa đói kém, nhà Tý con gần như sắp chết đói. Oái oăm thay lại là lúc thằng Cống đến kỳ thi.
Vợ Tý con trao nắm cơm bên cổng làng gạt nước mắt: “Phận mẹ nghèo hèn, hãy tha thứ cho mẹ. Từ đây đến tràng thi con phải tự kiếm lấy cái ăn độ đường. Nếu đỗ đạt nhớ tìm về, đừng giận, đừng khinh bố mẹ”.
Thằng Cống lều chõng trên vai. Gặp bờ bãi nó đào hố hun chuột đồng. Gặp nương khoai, bới trộm vài củ. Gặp cống rãnh nó be bờ tát vét bắt cá. Đêm mò vào các chùa xin ngủ nhờ. Làng nào mà chả có chùa. Có khi còn được ít oản chuối thừa lộc Phật.
Một buổi gặp gió mưa, cảm lạnh, nó phải vào nhờ bếp trấu nhà một ông già ven đường. Ông già nấu cháo, hái lá trong vườn sắc thuốc cho uống. Chia tay, còn con cá kho mặn ông xắn cho một khúc.
Ít lâu sau, một buổi ông già giật mình nghe ngựa xe chiêng trống rầm rập trên đường. Cờ biển võng lọng lóa mắt. Nhìn ra thấy thằng bé ngủ nhờ bếp trấu còn nợ ông một khúc cá kho hôm nào; giờ mũ mãng cân đai đang ngồi vểnh râu trên kiệu.
Thằng Cống chính là ông tiến sĩ Vũ Vi Án có ghi trong sử sách sau này. Ngài làm quan đến chức thượng thư trong triều.
Ông Vũ Vi Án giữa đường hoạn lộ dính líu vào một vụ rắc rối. Được vua hỏi ý kiến về việc chọn thế tử; biết là nguy hiểm, nhưng với khí tiết đạo Nho, ông vẫn ra sức can ngăn vì không thấy dấu hiệu minh quân của đấng trị vì tương lai mà vua định chọn. Tiếc rằng người ấy sau này vẫn lên ngôi, biết chuyện cũ bèn bí mật sai người đánh ông chết tươi. Để trừ hậu họa, vua còn ngầm sai tìm giết đứa con trai độc nhất của quan Thượng thư. May sao cậu trốn được, mai danh ẩn tích, giả làm tiều phu đốn củi trong rừng.
Ông Phạm Khắc chính là con trai người tiều phu ấy.
Thời gian làm quên mọi thứ. Nhờ có chút vàng bạc giấu giếm sót lại, ông Khắc khai khẩn vùng trung du thượng nguồn sông, trồng cam. Đất có vi lượng đặc biệt, cam ngọt lịm nổi tiếng một vùng.
Rút kinh nghiệm tổ tiên, ông Phạm xa lánh người đời. Trại cam biệt lập, hàng rào vây quanh. Mùa xuân hoa cam trắng xóa, ong bướm dập dìu, ông chủ trẻ tuổi lững thững dạo chơi. Hanh hao, cam chín vàng như đèn treo níu gẫy cành, lại một mình ông thẩn thơ bước.
Lữ khách phương xa ghé trại, được ông đón tiếp. Gần tết, hàng chục gánh cam nặng trĩu được gửi đi biếu các nhà nho và học trò hay chữ trong vùng.
Trại lập nhà từ thiện cho người nhỡ độ đường, nấu cháo phát chẩn quanh năm. Các cuộc chiến tranh khốc liệt ngoài đời thế nào, ông mũ ni che tai không biết. Chỉ trồng cam và làm điều thiện, tưởng thế là yên thân!
Không! Nhầm! Phong trào cải cách ruộng đất năm 1956 quy ông là đại địa chủ và đem đấu tố. Cãi vào đâu được. Sở hữu một vùng đất, thuê mướn nhân công, chạy đằng trời.
Cứ theo “tiêu chuẩn” mà kết thành phần, dù ông từng tốn hàng núi cam biếu tặng, hàng núi gạo làm việc thiện cũng mặc. Cỗ máy mù lòa lăn bánh không biết chừa ai trên đường đi của nó.
- Tôi xin hiến nhà nước toàn bộ trại cam, tài sản, chỉ xin tay trắng ra đi.
- Của mày đấy ư mà mày đòi hiến tặng. Của ông bà bần cố từ lâu rồi! Còn tay trắng ra đi ư? Dễ thế! Mày phải tù 20 năm.
- Tôi có tội gì? Tôi chỉ làm nên những mùa cam. Cam ngọt, không phải là thuốc độc. Không có tôi, đồi bỏ hoang. Tôi trả công người làm hậu hĩnh, ai cũng công nhận.
- Không biết... Cứ đối chiếu lý thuyết mà thực hiện. Mày giầu còn oan trái nỗi gì?
- Thế chả nhẽ nghèo khổ là có công có phúc à?
- Chính lý sự của mày đang tăng thêm hạn tù của mày đấy vì nó chứng tỏ mày khinh ghét người nghèo.
- Nếu khinh ghét thì tôi đã chẳng làm nhà từ thiện cứu giúp họ.
- Mày cho người ta ăn cháo loãng, còn mày ăn thịt tèm tèm chứ nhân đức gì mà kể công?
Rút cục thì tất nhiên ông đuối lý. Bao nhiêu công sức làm việc thiện không cứu nổi thoát cái tội đã dám trồng nên hàng vạn cây cam để có sự phân biệt giữa giầu nghèo, giữa ông chủ và người làm công. Ai bảo? Cứ đồng loạt cùng nghèo như nhau, cùng không có cam ăn có phải yên thân không?
- Tống cái thứ cam của nó vào mồm nó cho hết lý sự - Ông thẩm phán phiên tòa giận run lên vì chân lý của tòa cứ bị tên địa chủ xúc phạm.
Ông Khắc bị vành rách mép, quả cam chống bạnh hai hàm chật cứng. Mất nói, mất cãi. Đành phải lãnh án hai mươi năm tù.
Trại cam tan nát, ông Khắc vào tù! Còn may, cụ tổ còn bị chém đầu, ông nội bị đánh chết tươi.
Tù ăn thua gì!...
Chỉ phiền một nỗi vừa vào tù ông đã bị ốm. Khẩu phần tù chỉ là khoai sắn, ốm thì không thuốc. Người nhà tiếp tế cũng không được. Luật của các nhà tù: Không một viên thuốc cảm nào được lọt vào đây. Cấm tuyệt đối. Ông Khắc nằm trên sàn xi măng, sốt mê man, miệng đắng ngắt. Kẻ làm nên hàng núi cam, giờ chỉ thèm một quả (ăn lúc này chắc khỏi bệnh) nhưng đâu có được. Một người bạn tù giấu giếm được chiếc kim châm cứu, lấy ra chữa bệnh cho ông. Lạ sao không thuốc thang, chỉ một chiếc kim mảnh như sợi tóc châm các huyệt, mà bệnh lui. Phép nhiệm màu!
Người cai ngục bắt quả tang cảnh châm kim vào người, hét lớn: “Chúng mày định tự sát trốn tránh tội ác sao?”. Tang vật bị tịch thu. “Nếu chúng mày tự sát chúng mày sẽ lãnh án tử hình” - Cai ngục tuyên bố.
Ông Khắc học phép châm cứu của người bạn tù. Còn phải ở đây hai mươi năm cơ mà. Trông cậy vào cây kim vạn năng để chữa bách bệnh. Mất cây này, mài dây thép làm cây khác.
May thay mới tù được một năm ông Khắc đã được tha. Vì cách mạng đã chuyển sang phong trào sửa sai cải cách ruộng đất. Cách mạng đôi lúc khó tránh khỏi các xu hướng tả, cực tả, hữu, cực hữu. Và thường được điều chỉnh uốn nắn kịp thời.
Sửa sai án tù hai mươi năm, nhưng thành phần địa chủ thì vẫn giữ nguyên. Bởi vì theo lý thuyết, đâu có sai!
Nhà cửa tài sản đã chia hết cho bần cố! Bây giờ thì ông Khắc được chấp nhận lời đề nghị trước tòa lần trước: tay trắng ra đi...
Giận cây cam tưởng đem vị ngọt cho đời, ai ngờ lại đắng đến thế (chỉ dám giận cây cam thôi, không dám trách ai, cũng không dám thắc mắc với lý thuyết). Ông Khắc rời trung du, đi tìm đất sống nơi khác. Vợ đã ốm chết, vì quá buồn phiền tuyệt vọng lúc ông đi tù. (Đàn bà thật thiếu nghị lực). Con giai ông, thằng Phong thì trốn ra thành phố (họ nhà ông đúng là có biệt tài lẩn trốn). Mười bốn tuổi Phong đi bán kem, đẩy xe bò, phụ nề... lấy tiền học. Đói rách, Phong được khu phố xếp cho thành phần “dân nghèo lao động” - tức cốt cán - nên “tiến bộ vùn vụt”, Thanh niên cờ đỏ, trưởng ban dân phòng, tổ trưởng khu phố... Một tấm gương sáng, mẫu thanh niên có lý tưởng, chỉ tu dưỡng, học tập, không thèm ăn chơi hưởng thụ (đâu có mà thèm!). Phong được ưu tiên cho vào trường “bổ túc công nông” đào tạo cấp tốc cán bộ xuất thân công nông.
Phong giấu tung tích của mình như ông nội tiều phu xưa giả nghề đốn củi trong rừng. Ông nội giả vờ nghèo vì còn có vàng bạc lúc trốn. Thời ấy chính quyền phong kiến còn lỏng lẻo. Chứ Phong thì nghèo thật. Bộ máy chính quyền chuyên chính giờ tổ chức chặt như nêm, Phong trốn đi không có gì ngoài bộ quần áo trên người.
Ở tù ra, địa chủ Phạm Khắc không một lần tìm gặp anh học sinh bổ túc công nông. Anh cán bộ tương lai đó có nghe bố đã được thả, nhưng cũng không thể tìm gặp “phần tử” đối kháng của giai cấp mình. Hai người giờ ở hai trận tuyến...
... “Lữ khách” lần theo dãy núi... Thường thì người ta từ trong núi ra nơi quang đãng. Lữ khách thì ngược lại. Núi mỗi ngày một trập trùng theo phong cách thập vạn đại sơn. Mặt đất chỉ còn đá uốn như rồng lượn, như mây cuộn...
Đá xanh mốc, thiên tuế, bụi gai dương xỉ lắt lẻo bám vách. Đá tạc hình muôn dáng vẻ, nhọn tháp, vuông tròn, sần sùi lồi lõm...
Những hang, động tối om, nước ngầm lạnh buốt, nhũ buông óng ánh.
Ông Phạm Khắc cứ lần từng bước trong cái thế giới đá kỳ vĩ, sâu nữa, kín nữa. Trại cam xưa tưởng đã biệt lập, ai ngờ?
Phải ẩn mình trong cái thành lũy tự nhiên này.
Chùa Bích Động hiện ra trong cái rốn của thập vạn đại sơn làm ông Khắc sững người. Hóa ra đời xưa đã có người khôn hơn ta. Mình chẳng mới lạ gì, chỉ là sự lặp lại.
Chùa toàn bằng đá đẽo, tòa ngang dãy dọc. Duối và dâm bụt cổ thụ xén tỉa thành những bức tường ngút mắt vòng quanh.
Bích Động - động ngọc, ta ở đây thôi! Nhưng làm sao thành Sư được bây giờ? Sư, hòa thượng... đâu dễ thế.
Cũng may ngoài đời lúc ấy đang bừng khí thế đời mới, “bàn tay ta làm nên tất cả”. Không có thần thánh gì, đời đang múa điệu “vui sản xuất tập đoàn”, ai thèm để ý đến chùa chiền.
Ông Khắc xin làm chân quét lá đa cửa chùa. Chức thấp hèn. Rồi khi sư cụ chết, thằng quét lá đa vọt lên địa vị chủ nhân. Đời mới, người ta xô đến các nhà máy công trường, hợp tác xã; ai dại gì tranh cạnh ở xó xỉnh này.
Đời mới chống mê tín dị đoan, không khách thập phương cúng bái oản chuối, không có “ba cô đội gạo lên chùa, một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư...”.
Nhưng “đời mới” lần lần cũng thành “đời cũ”. Làm gì có gì mới mãi được!
Khổ đau trên cõi đời này thì cứ mỗi ngày mỗi nhiều. Thơ ngây, giản đơn, hồn nhiên thì khổ đau còn ít, càng văn minh, càng tiến lên, tinh vi phong phú, phức tạp thì càng khổ đau nhiều. Cái tỷ lệ thuận oái oăm. Bệnh tật cũng chạy đua với những tiến bộ kỳ diệu của y học, chửa chịu thua.
Người của “đời đã cũ” lại sực nhớ đến một thứ cũ nhất: thần linh! Lại lên chùa cúng bái cầu mong chữa khỏi cái đau tâm hồn và cái đau thể xác.
Ông Phạm không yên tâm với thứ thuốc “truyền thống” của mọi nhà chùa: Tàn hương, nước thải! Ông nhớ đến cây kim châm cứu. Thử một cái xem sao.
Một thằng bé liệt được đem đến nhà chùa cúng bái. Ông Khắc xoa khắp đôi chân mềm oặt của nó, tìm huyệt, cắm kim. Lạ sao, lúc đầu đến, nó còn nằm trên lưng mẹ chân đu đưa như dải khoai... mà bây giờ sau vài buổi xoa bóp, châm cứu, nó từ từ vịn vai mẹ, đứng được trên hai dải khoai ấy.
Bà mẹ không tin ở mắt mình. Ông Phạm cũng không tin ở mắt mình. Thằng bé cũng không tin ở mắt mình, mặc dù đang đứng trên chính đôi chân của mình sau một năm bất động.
Thế này là thế nào? Bà mẹ trở về chỉ còn thiếu đi gọi loa khắp vùng về sự nhiệm màu mà bà trông thấy nhỡn tiền.
Trong một tuần chuyện loang ra khắp huyện; trong một tháng loang ra khắp tỉnh. Người thì cho là tại thần Phật chùa Bích Động thiêng. Người thì bảo sư ông được Phật truyền phép màu.
Chuyện được thêu dệt thành ly kỳ hơn: Thằng bé liệt được cõng đến, sư ông trông thấy quát: “Đứng dậy đi”..., thế là thằng bé vụt đứng dậy...
Chùa Bích Động bắt đầu đón bệnh nhân tứ xứ. Ông Phạm Khắc hãi hùng thấy sự nhiệm mầu của chính mình. Ông ra sức cải chính nói là tại châm cứu. Nhưng thế gian hàng vạn ông lang châm cứu, sao không làm được trò trống gì. Khi người liệt thứ hai, thứ ba chữa không khỏi, thì ông thở phào nhẹ người: “Đấy nhé, đã bảo tôi không có tài cán gì mà”.
Nhưng người liệt thứ tư đem đến lại vụt khỏi. Ông Khắc lại kinh hoàng; mình sợ chính mình. Tiếng đồn đại lại loang to.
Người bệnh gọi ông là “Phật sống”, ông càng sợ. Nhưng rõ ràng là chỉ bằng xoa bóp mà đôi chân bại liệt đã được phục hồi.
Ai mà dập tắt được lòng ngưỡng mộ. Ai kìm nổi làn sóng lời đồn đại. Một đồn mười, mười đồn trăm.
Con bệnh được chữa khỏi tiếp theo, ở lại luôn chùa làm đồ đệ. Rồi dăm ba đồ đệ chứ không phải một. Rồi khách thập phương đến lễ bái, hương khói ngút trời, lễ cả “Phật sống”. Ông Phạm đủ thông minh để phòng thân,
sai đồ đệ trồng vườn thuốc Nam. Con bệnh đến cho uống thuốc... hoàn toàn “hợp pháp”, lại đúng như phương châm Đông Tây y kết hợp của nhà nước.
Tình thế đẩy ông đến chỗ không thể thoái lui. Người ta van lạy ông “Cứu nhân độ thế’. Đêm đêm ông chong đèn đọc sách Đông y và để râu dài như Hải thượng lãn ông. Có điều khi đã tinh thông Đông dược rồi nhưng toa thuốc của ông vẫn bất biến. Bệnh gì cũng từng ấy rễ, vẫn từng ấy lá. Đau xương cũng uống thang thuốc của nhức đầu. Nhức đầu cũng uống thang thuốc của bại liệt.
Vậy mà cứ khỏi. Thế là thế nào. Chính ông Khắc cũng không hiểu nổi, càng ngày càng hoang mang cực điểm. Chẳng có lẽ có thần thánh thật. Có thần thánh sao người làm việc thiện như ông lại đầy oan trái? Thần thánh đã nhập vào mình chăng? Mình không còn là mình nữa rồi. Hay mình đã hóa kiếp, đã chết rồi mà không biết.
Ký ức ông vẫn còn nguyên: Trại cam, đi tù... Nỗi lo của ông vẫn còn nguyên, đứa con ở thành phố mà lộ tung tích con đại địa chủ thì bị tống khỏi cơ quan vì tội khai man lý lịch.
Vậy là ông chưa thể là thánh được. Nhưng không thánh sao lại nắn vào ai người ấy khỏi bệnh?
Cho đến ngày kia, ông đọc Tân ước, thấy chuyện lạ khác thường. Jesu sờ vào người phung da; người phung da lập tức lành lặn. Người đau bại liệt nằm giường, được Chúa phán, vụt đứng dậy vác giường mà đi. Rồi người teo tay, người quỷ ám... đến được Chúa phán truyền một câu bảo khỏi là khỏi. Chúa lại có cả phép lạ đi bộ trên mặt biển...
Hay ta cũng là kiếp sau của Chúa Jesu? Ông Phạm Khắc càng nghĩ càng sợ, càng thấy mình xa lạ với chính mình, mình không còn là mình nữa. Làm thế nào bây giờ?
Nhưng một hôm ông Phạm Khắc thở phào dứt được nỗi băn khoăn! Ngoài cửa chùa có chiếc Sitđờca của công an xịch đến. Khóa số 8 còng tay. Ông bị bắt vì làm nghề mê tín dị đoan, bịp bợm, làm mất niềm tin vào “duy vật”. Trên đời này làm gì có chuyện quát một tiếng “đứng dậy đi” là người liệt vùng đứng lên được.
Những đồ đệ đứng trơ mắt ếch ra nhìn “đức thánh” bị giải đi.
Tiếng đồn lại lập tức lan truyền. Ông sư chữa bệnh ở chùa Bích Động là láo toét, công an tóm rồi. Bịp bợm kiếm tiền!
Vào tù lần này ông Khắc thấy yên tâm thanh thản. Còn hơn ở chùa mà hoang mang không còn tin mình là mình nữa. Mình đã thành ma quỷ, thần thánh khó hiểu.
Ở tù đến tháng thứ sáu, một hôm cai ngục dẫn ông đến gặp một vị sếp của Bộ. Xa lông, trà thuốc mời chào trịnh trọng. Ông có phải chính trị phạm quan trọng đâu mà người ta cần mua chuộc!
Vị sếp dẫn ông đến một biệt thự có lính gác. Hay là đem giam biệt lập trong biệt thự bí mật như kiểu giam thủ lĩnh chính trị đối lập ở các nước tư bản? Ồ ta đâu đủ cỡ ấy!
Ông Phạm được tắm rửa, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, rồi vị sếp mới giải thích:
- Đây là nhà một cán bộ cao cấp. Con giai đồng chí ấy bị liệt đã nửa năm, chạy chữa không khỏi. Ông thử giúp xem sao.
Ông Phạm Khắc nghĩ là họ giả vờ để đánh lừa, cho mình vào tròng, rồi trị một vụ “chống duy vật” điển hình làm gương cho thiên hạ.
- Thưa cán bộ, tôi đúng là thằng bịp bợm kiếm tiền, phao tin đồn nhảm, gây hoang mang, tôi xin thành tâm cải tạo.
- Không! - Ông sếp cười vang - Ông không lừa bịp.
- Dạ có lừa bịp ạ - Ông Phạm khăng khăng.
- Đây là hiện tượng trường sinh học, tên gọi đúng là “Trường vật lý của sinh vật”. Chuyện khoa học nghiêm chỉnh. Quanh mỗi con người có trường từ tính. Sinh vật tồn tại với sự phản xạ của chúng vào không gian. Trên thực tế, có những người đặc biệt, có trường vật lý sinh vật khi bức xạ có khả năng tác động đến hệ thần kinh của người khác, chữa được bệnh đau đầu, bại liệt cho người khác. Có người lại thôi miên làm cho cây cỏ lớn nhanh trông thấy; đoán biết được ý nghĩ của người khác kể cả thông tin lưu trữ trong máy tính điện tử.
Có thể ông có thứ nhân điện kỳ diệu ấy. Không dưng thành chuyện đồn đại...
- Tôi... tôi có nhân điện kỳ diệu, không phải là thần thánh?
Ông Phạm Khắc bàng hoàng... trời ơi hóa ra là chuyện khoa học à, tôi chữa khỏi bệnh liệt cho người khác là chuyện thật à... Thì đúng thế rồi. Thưa cán bộ, không, tôi không bịp bợm để lấy tiền, vì tôi có nhận tiền của ai đâu, tôi chỉ làm phúc... Tôi sờ sờ nắn nắn, xoa bóp... và thế là đứa bé liệt đứng lên được.
- Thứ trường vật lý của sinh vật, khả năng nhân điện, ngoại cảm đặc biệt này, cùng trong một người, lúc có, lúc không. Có thời kỳ cực mạnh. Nhưng đến một thời kỳ sẽ yếu hoặc mất hẳn. Và tác động đến ai cũng tùy đối tượng. Có người khỏi bệnh, có người không. Thế giới sinh vật bí hiểm, chưa thể dùng khoa học giải thích hết được. Có người có bàn tay sờ lên giấy mà nhận biết được màu sắc, đọc được chữ. Có người nhìn xuyên qua được quần áo, valy. Có nhà nữ toán học Ấn Độ, khi người ta chép đề toán giải phương trình dày đặc cả bảng đen; vừa buông phấn, cô đã nói luôn đáp số. Đáp số tự nhiên hiện lên trong đầu cô. Chính cô cũng không giải thích được. Cô đã biểu diễn trước các nhà toán học quốc tế như biểu diễn xiếc, chứ không còn là chuyện đồn đại.
Sinh vật bí hiểm. Loài người bí hiểm. Các thần đồng, thiên tài cũng là một dạng đặc biệt khác lạ, không giải thích nổi như thế...
Thằng bé, con vị cán bộ cao cấp nằm trên giường, xanh bóng, chân lắt lẻo; giương mắt nhìn ông Phạm Khắc bước vào phòng. Vị cán bộ không xuất đầu lộ diện, bà vợ cũng lánh mặt. Cả vị sếp nói thông văn vắt về trường sinh học cũng biến mất tăm. Để khỏi bị liên lụy. Coi như không ai biết chuyện này. Sau này nếu không may mà bị kết tội “mê tín dị đoan”, tội “phi duy vật”
thì còn cãi được. Chỉ thằng bé bị liệt và ông thầy thuốc chịu tội thôi. Người đang chức đang quyền dính vào là phiền. Trường sinh học còn là quá xa lạ trong xã hội vô thần cực đoan.
Ông Phạm Khắc rò bàn tay nhân điện của mình khắp người thằng bé lá ngọc cành vàng. Ông nắn bóp. Ngày hôm sau rồi ngày hôm sau nữa. Chỉ ông với nó. Bí mật tuyệt đối. Có gì chỉ hai người gánh tội...
Ngày thứ tư, vị cán bộ cao cấp đang ngồi trong phòng làm việc thì đứa con trai sau nửa năm nằm liệt ỉa đái tại chỗ, lò mò bước vào bằng chính đôi chân của nó. Hai cha con ôm chầm lấy nhau òa khóc. Danh chính ngôn thuận loan ra: Con giai ông được các bác sĩ Tây y cho uống B1, tiêm và luyện tập, nên đã phục hồi chức năng đi lại. Ông Phạm Khắc được phóng thích với lý do có tinh thần cải tạo nghiêm túc...
Cửa trại giam hôm ấy có một người thanh niên tìm đón ông Phạm. Phong không dám vào thăm bố lần nào vì có sự khai báo tại phòng thường trực về quan hệ giữa người thăm và tù nhân. Phong đã được đề bạt chức trưởng phòng. Đảng viên, trưởng phòng, lẽ nào lại có một người bố đi tù. Phong cũng không dám đưa cha về khu tập thể, nhà nọ dòm vách cót ép nhà kia, như thế chẳng khác lạy ông tôi ở bụi này.
Hai cha con tìm một phố vắng, ngồi xuống hàng phở rong bên hè. Đang ăn thì cảnh sát xuất hiện. Bà hàng gánh phở ù té chạy, đổ tung tóe nước dùng. Thành phố cấm quà bánh chế biến bằng gạo, thịt, phạm chính sách lương thực.
Phong lại đưa cha vào hàng trà chén. Ông chủ bảo đảm: tôi có ba con là liệt sĩ ba thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam nên được ưu tiên mở hàng trà chén. Người khác thì đừng hòng. Chính sách cấm buôn bán.
Phong không biết đãi người bố đói khát vừa ở trong tù ra món gì. Cơm phở mậu dịch thì xếp hàng rồng rắn mấy chục người, không đến lượt. Muốn mua tặng bố cân đường thì đường bán phiếu. Muốn tặng bộ quần áo thì vải bán tem phân phối. Muốn đưa bố vào bệnh viện khám bệnh thì không có giấy giới thiệu đúng tuyến, không sổ y bạ.
Ông thánh chữa bệnh bại liệt cho người nhưng cái thân xác nằm nền xi măng xà lim, ăn cơm sắn ngô thì quá quắt queo. Nhân điện nhiệm màu tỏa ra từ bàn tay không chữa khỏi cơn ho rút ruột từ đôi phổi lép của mình.
Không có món ăn “vật chất” thì ăn món “tinh thần” vậy. Vào rạp xem kịch, kịch đề tài đấu đá nhau căng thẳng để nâng cao năng suất lúa ngô. Xem xong mệt phờ, chẳng vui thú gì. Nhưng thôi, dù sao cũng đã đủ lệ bộ, có vật chất có tinh thần, đúng cách người xã hội văn minh.
Ông Phạm Khắc đeo khăn gói trở lại Bích Động. Những con bệnh bại liệt dần dần lại đến với ông. Mười người thì lại một hai người khỏi bệnh... Tiếng tăm của ông lại nổi lên như cồn. Khi số người khỏi bệnh lên đến số chục thì trong dân gian ông đã trở thành nhân vật thần thoại.
Bây giờ thì ông không còn sợ nữa. Ông đã biết rõ khả năng đặc biệt của mình. Cứ để cho người đời tôn vinh theo tưởng tượng của họ.
Tội gì không thành tiên ông, thành Phật sống. Chả phải cải chính.
*
*   *
Người con trai ngắm nhìn làn nắng nhảy múa trên những ngọn sóng thần của biển đá trong buổi bão tố khai thiên lập địa. Đá xếp bằng chằn chặn chạy dài như Vạn lý Trường Thành. Đá vụt đột khởi lên như những lâu đài nguy nga tráng lệ khổng lồ. Thành lũy, pháo đài cố thủ của người ẩn sĩ.
- Cha này, lắm lúc con nghĩ, sau bao năm giấu giếm, bây giờ đã đến lúc ta công khai tất cả chăng? Dòng họ nhà ta thật không có gì hổ thẹn. Tiến sĩ thượng thư, “Tiên ông”, giờ lại có cả nữ thánh nhân được tôn vinh thờ phụng trong giáo hội toàn cầu. Tự hào lắm chứ. Hệ thống hóa lại, công bố đi cha. Địa vị của con trong cơ quan nhà nước bây giờ đã vững như thạch bàn, con đã là một thủ trưởng nhỏ, đã có thể miễn dịch với mọi thứ, không còn các nỗi lo và sự giấu giếm như dạo trước... Những ngày này, người đời đã thay đổi tận gốc rễ nhiều quan niệm. Con cho rằng ta có thể nói rõ cho mọi người biết rằng nữ thánh Têrêxa Vũ Thị Từ Chinh chính là tổ của dòng họ ta. Tổ của ta được tôn vinh trong giáo hội toàn cầu...
- Con đùa đấy à - Ông Phạm Khắc nghiêm trang.
- Nếu cha cho rằng con nói thật, thì nó là thật, còn cha cho là đùa, thì nó là đùa - Phong mỉm cười thăm dò.
- Thật vớ vẩn! Thật dở hơi.
- Tại sao ạ!
- Khi người ta biết cha, tiên ông “Phật sống” ở chùa Bích Động lại là con cháu thánh tử đạo Thiên Chúa, thì thật là một sự khôi hài. Thánh của đạo này lại là con cháu thánh của đạo kia được ư?
- Con chưa thấy bị thuyết phục.
- Vả lại cụ Từ Chinh có đúng là đức thánh vinh quang không. Một người đàn bà gánh trên vai tất cả nỗi đau của mặt đất này nên mới mơ ước một cái gì hão huyền không tưởng trên Trời. Và do đó mà bị vạ lây, bị mặt đất trừng phạt thảm khốc.
- Như vậy là có sự phi lý trong việc phong thánh.
- Có lý trong thế giới Giáo hội. Cần cho lý tưởng của họ. Nhưng với cuộc đời thì không nhiều giá trị. Hơn nữa đứng ở góc độ lịch sử, kẻ có liên quan đến đạo ở cái thời kỳ bị ngoại bang lợi dụng biến thành công cụ do thám để chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng đô hộ thì còn là một tội lỗi.
- Động đến vấn đề chính trị là con ngán. Thôi, dẹp vụ Thánh Têrêxa Từ Chinh lại. Giấu kín coi như không dính líu gì đến ta... không phải là cụ tổ của ta.
- Còn cha nữa, thánh nhân, tiên ông, Phật sống chùa Bích Động cũng đang là nỗi bi kịch đây. Con biết không, kẻ lừng danh này đang run sợ, run sợ... con nghe rõ chứ.
- Thưa cha...
- Đã một năm nay, khả năng trường vật lý của sinh vật, thứ nhân điện nhiệm màu trong ta đã biến mất hoàn toàn. Không còn xoa bóp chữa khỏi một cơn nhức đầu cho ai nữa, chứ đừng nói đến bại liệt. Cha đã vô dụng hoàn toàn. Nhưng thiên hạ vẫn cứ ùn ùn đem bệnh nhân đến. Trót thành thánh rồi, không thành người thường được nữa. Cha cứ phải đóng tiếp vai kịch. Oai lắm, phong độ lắm, nhưng thật khôi hài. Lỗi không ở cha, cha chỉ là người thường. Nhưng nếu bây giờ cha nói thật về sự vô dụng của cha hiện nay, thì cha lại là người có lỗi to hơn. Người đời sẽ hoang mang mất niềm tin. Mất niềm tin là mất sức mạnh. Vai kịch... ôi vai kịch của ta.
Ông Phạm Khắc ôm đầu.
Nắng chiều bắt đầu nhạt dần trên dãy “Vạn Lý Trường Thành” và cái “lâu đài cố thủ” của người ở ẩn.
Trên con đường từ chùa Bích Động ra có một chàng trai cắm cúi trên chiếc xe máy. Anh phải về thành phố để kịp giờ làm việc ngày mai, đúng thời gian biểu hành chính đời thường.
1989

Hai chị em
U
 tôi bảo:
- Thằng Tộ, con giai u lớn rồi. Có thích lấy vợ không?
- Có - Tôi gật đầu tắp lự. Hồi mới sáu tuổi, chả hiểu thế nào mà tôi đã lăn bò beo ra sân khóc đòi lấy vợ. Huống hồ bây giờ 16 rồi.
- Bên Cụ Đồ Ba có con gái sinh đôi: Song và Nga. Mày thích đứa nào?
- Thích cả hai.
- Không. Chỉ được một thôi.
- Đứa nào cũng được.
Song, Nga giống nhau đến mức khó phân biệt. Cùng nõn nà, cùng mắt sắc như dao. Cùng giọng nói trong vắt.
Hôm đưa dâu, cả hai đứa cùng mặc áo dài tứ thân thắt vạt. Ông Đồ Ba cũng tếu, hàng ngày luôn cho ăn mặc giống nhau. Và bây giờ cũng chặc lưỡi: Đứa nào lấy thằng Tộ cũng được. Khi chủ hôn gọi: “Cô nào là cô dâu ra lễ tơ hồng”, hai đứa, đứa nọ đẩy đứa kia. Cũng là trò vui của ông phó tếu, chứ chắc bên trong đã có ý định rồi. Cả đám cưới cười ồ. Bàn thờ lễ tơ hồng là một án thư, dưới trải hai chiếc chiếu cạp điều. Tôi quỳ chiếu trên. Vợ quỳ chiếu dưới. Sau mấy câu đọc văn ngân nga của ông chủ hôn, tôi nâng ly rượu nhấp một ngụm, rồi quay xuống đưa cho cô dâu uống nốt nửa còn lại. Rượu làm cô gái mặt đỏ hồng, từ đó phân biệt rõ ai là vợ tôi, ai không.
Tục lệ quê tôi, tối tân hôn thường có hai cô phù dâu ngủ lại “ngăn chặn” chú rể động phòng. Cũng là một trò chơi “tếu” của các cụ ngày xưa. Tất nhiên là tối sau thì chỉ có một “cô dâu chính thức” ở lại. Tôi lấy mực đỏ bôi vào đùi vợ đùa:
- Anh đánh dấu!
Vợ chồng tôi ra ở riêng, một ngôi nhà gỗ xoan ba gian, một mảnh vườn trồng rau. Chuồng lợn, chuồng gà, đống rơm, bồ thóc, con chó vàng, chum tương, chum đỗ... Vợ tôi là Song, khỏe mạnh, làm như thần đồng, không lúc nào ngơi tay. Suốt ngày ngoài đồng, ngoài chợ; chiều về băm bèo nấu cám; tối làm hàng xáo. Cái cối xay nặng chình chịch, mà cô ấy kéo vèo một cái xong mẻ thóc. Rồi sàng ngoay ngoáy. Rồi giã gạo thình thịch đến khuya. Người sực mồ hôi, ra cầu ao đêm trăng tắm tùm tùm, đến khi người căng phồng mát rượi, vào nằm ôm chồng, rúc rích cười mấy câu là lăn ra ngủ.
Cuộc sống hạnh phúc, thanh bình. Đứa con gái đầu ra đời, xinh đẹp, ngoan ngoãn. Dì Nga đến chơi, ôm cháu hôn hít.
- Bao giờ dì Nga lấy chồng, cho cháu ăn cỗ nhé - Tôi bảo.
- Em còn lâu.
Trông dì Nga giờ dễ phân biệt với vợ tôi rồi. Vợ tôi đẫy ra, ngực xộ xệ, còn dì Nga vẫn thon thả gọn ghẽ, eo lưng cong cong bay bổng.
Ở nhà quê, 16 tuổi là lấy chồng. Ngoài 20 đã hơi ế. Mà dì Nga đã 22, vẫn đủng đỉnh “vô tư”. Đã từ chối hai đám. Ông Đồ Ba có hai mụn con gái, goá vợ từ sớm, không tục huyền, chỉ muốn gả chồng sớm cho con. Đến đám thứ ba dạm hỏi, ông đe:
- Tam giả ba bận. Lần này mà mày không ưng thì cho mày làm bà cô.
Đám thứ ba, dì Nga vẫn từ chối thật. Ông Đồ Ba kinh hãi gào thét:
- Có đường có nẻo thì bước, đừng ở nhà tao nữa.
Dì Nga đi thật. Người ta về tuyển công nhân cho công trường đập đá làm đường. Còn gì vất vả hơn việc vậc búa đập đá. Gái công trường đầu đường vất vưởng, hay ho gì. Vậy mà dì Nga “xung phong”.
- Trông cái cảnh đầu tắt mặt tối “lợn kêu con khóc” của chị Song, em sợ lắm.
Vợ tôi bảo: “Dì nó điên rồi”. Trong ánh mắt vợ tôi, ánh lên niềm hạnh phúc mãn nguyện cuộc sống gia đình.
Dì Nga đi miết. Đập đá rồi sau đấy làm gì nữa chả biết. Thỉnh thoảng có về nhà, cũng có chút quà cho bố, gói kẹo cho cháu. Hỏi chuyện chồng con, vẫn chỉ cười trừ. Công việc vất vả, dãi nắng dầm mưa công trường, nhưng trông dì vẫn trẻ trung tươi tắn. Dì như con chim đã vượt khỏi lồng. Chẳng ai còn đủ sức lo lắng chuyện chồng con cho dì nữa.
Vợ tôi sinh con thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư. Mắn đẻ, ba năm đôi. Đứa chị cõng đứa em. Trứng gà trứng vịt. Đứa đầu đã biết tảo tần đỡ đần mẹ. Ra đồng gánh phân vơ cỏ. Cái quang dài hơn người. Dì Nga về nhìn cháu, thở dài, nhưng cháu thì cứ vui hơn hớn.
Nhìn bộ dạng dì son rỗi, nằm dài thườn thượt một mình, vợ tôi chép miệng: ế chỏng, ế trơ rồi, chó nó lấy nữa!
Bẵng đi nhiều năm, không thấy dì về nhà, chỉ thỉnh thoảng gửi tiền qua Bưu điện về cho bố.
Cảnh nhà tôi, con đông, dần dần lâm vào túng thiếu. Rồi đến một thời kỳ kịch điểm “thóc cao gạo kém”. Ruộng đất đã tập trung vào hợp tác xã hết. Xã viên đi làm theo kẻng tầm, lấy công điểm. Cuối vụ, cộng sổ, được chia vài tạ thóc. Nhiều khi làm bán lưng cho đất, bán mặt cho giời, nhưng làm “tập đoàn” “cha chung không ai khóc”, “bâng quơ bỏ vãi”, năng suất quá thấp. Giá trị một ngày công chỉ ứng với vài lạng thóc. Công điểm ghi đầy sổ, mà không đủ ăn, bữa khoai, bữa cháo. Tỉnh quê hương được báo chí nêu gương điển hình tiên tiến, sôi sục khí thế thi đua giành cờ đầu; nhưng trong thực tế được dân gian mệnh danh là tỉnh đi đầu về “công nghiệp hoá” xây dựng nhiều “nhà máy cháo”.
Tôi không thể sống bằng danh hiệu “xã viên tiên tiến” được, mà “bụng đói đầu gối phải bò”, sắm chiếc xe đạp, thành anh “phó thường dân lạc hậu” chạy chợ, kiếm cơm.
Tôi mê tơi trong cuộc chạy ăn cho bốn đứa con, mụ mị cả người đi, không còn biết giời đất, không còn nhớ đến ai nữa. Mười năm đói dài làm tôi thành cái xác không hồn. Nhiều đêm ngủ mơ thấy cảnh dỡ khoai lang, bổ nhát cuốc, củ khoai lang lộ ra, và đã chín thơm nức ngọt lịm trên môi ngay từ lúc còn nằm trong đất rồi.
Đúng là giấc mơ của anh đói. Tôi quên bẵng dì Nga, dì nghiếc cả chục năm. Vợ tôi cũng thế và nghĩ bụng: Dì Nga chắc cũng đang đói dài ở “rừng xanh núi đỏ” nào đó, mặc dù vẫn thấy thỉnh thoảng gửi chút tiền về cho ông Đồ Ba.
Lần ấy tôi thồ sắn khô từ miền ngược về. Nghỉ chân ở một ngã ba gần Hà Nội, vào quán, ăn bát phở lấy sức. Phở “không người lái”. Tức là không có thịt. Tên phở lấy từ “sự tích” là trên trời có loại máy bay không có phi công, không người lái, chuyên trinh sát mục tiêu, cho máy bay tiêm kích F105, F4H của Mỹ ném bom trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta thời kỳ đó.
Phở “không người lái” nhưng người bưng ra là một con bé con tuyệt đẹp. Tóc vàng, mắt xanh, da trắng như tuyết, một thiên thần con lai người châu Âu. Tôi nhìn không chớp mắt. Nó mới chừng 10 tuổi, mà nở nang như con gái trăng rằm.
- Nhà cháu đây à - Tôi hỏi.
- Vâng.
- Cháu biết làm phở cho khách?
- Mẹ cháu dậy.
- Mẹ cháu đâu - Tôi tò mò hỏi.
- Mẹ đi vắng.
- Bố cháu người Liên Xô à?
- Vâng.
- Sao không về Liên Xô ở cho sướng, mà lại ở đây?
- Cháu không biết.
Bẵng đi một thời gian, chạy chợ tuyến khác, nên tôi không qua “quán Con Lai”. Lần ấy có dịp trở lại, tôi bước vào và giật mình. Con bé lai ngày xưa đã thành một thiếu nữ. Quán mở rộng, khang trang, ăn nên làm ra, thuê người chạy bàn, bán phở có người lái (thịt gà, thịt bò). Lái xe tải, xe khách đường dài vào ăn nườm nượp. Xe đỗ đầy cửa hàng. Cô gái lai được cánh lái xe mê cuồng. Anh nào cũng thích.
- Em Liên ơi, cho anh một chai bia.
- Em Liên cho anh bát phở...
Liên là Liên Xô - các lái xe đặt cho cô hay là mẹ cô đặt. Chỉ biết đã thành tên.
Liên ngồi thu tiền. Mặt sáng trưng như trăng rằm. Bọn lái xe tựa đám thiêu thân bay quanh.
Tôi vừa ăn phở, vừa ngắm không chớp mắt. Bỗng tôi thấy từ trên gác một chú bé tóc màu bạch kim xoăn tít bước xuống. Nó chừng 4 tuổi, chạy lon ton bên người chị tóc vàng mắt xanh. Cùng là con lai nhưng khác màu mắt, màu tóc.
- Chị Liên ơi, chị Liên ơi... - Giọng nó non tơ, hơi ngọng, đáng yêu lạ lùng.
Một người lái xe ngồi bên, vẻ thông thạo, thuyết minh:
- Đứa chị là con ông Liên Xô dòng giống Slavơ. Đứa em là con ông Thụy Điển, dòng giống Ăng lô xắc xông.
Bà chủ này khiếp lắm. Nay ngủ với ông Trung Âu, mai ngủ với ông Bắc Âu. Ông Liên Xô xưa chỉ có chiếc xe đạp Con én, chiếc dây chuyền vàng tây, hộp sữa maloco, nên con Liên xưa bán phở không người lái.
Còn ông Thụy Điển chắc chỉ là nhân viên văn phòng gì đó, nhưng cũng có đô la. Cho nên cửa hàng mới mở khang trang hơn thế này.
- Bà chủ này là cái gì mà gớm thế - Tôi hỏi.
- Ban đầu chỉ là cô gái công trường, sau về Hà Nội làm việc ở Công ty Công viên. Tức là chuyên dọn cỏ trồng hoa. Được Công ty cử vào Sứ quán Liên Xô chăm sóc vườn hoa cho họ, nên quen một ông “nhân viên kỹ thuật” người Nga. Ông Nga Bôn sê vích, xa vợ lâu ngày, lại sắp đến hạn về nước nghỉ hưu, nên tavrit đếch sợ kỷ luật ngoại giao, đánh quả liều ngủ với cô dọn vườn xinh đẹp, không chồng, lại “đong đưa”. Bếp điện, ổ cắm, bàn là, dây mai xo, đồng hồ Pôn giốt... Anh Liên Xô thì có thế thôi, nhưng bù lại, cô dọn vườn đẻ được đứa con gái xinh đẹp. Từ sứ quán nọ, người ta giới thiệu “nhân viên kỹ thuật dọn vườn trồng hoa” cho nhau. Thế là cô gái quen được ông Thụy Điển.
Tôi lắc đầu lè lưỡi, nhưng thắc mắc:
- Nhưng sao “bọn quốc tế” ki bo thế, chỉ cho “người yêu” đủ tiền mở cái quán tầm tầm thế này thôi à?
- Thì lấy đâu ra. Toàn loại “nhân viên kỹ thuật” văn phòng cả. Thế này cũng tốt rồi. Còn hơn suốt ngày trồng cỏ tỉa hoa.
- Ước gì “cưa” được cô Liên về làm vợ - Một người lái xe khác nói - Suốt ngày “côn số”, ăn cháo ăn khoai, lấy tiền “cung phụng” cho vợ cũng sướng.
- Tôi tin rằng với đà này, bà chủ cửa hàng “Con Lai” còn phát triển, gặp được những ông “Tây bự” nhiều tiền hơn...
*
*    *
Sang thời “Đổi mới” hợp tác xã nông nghiệp giải tán, cuộc sống gia đình tôi ngày một được cải thiện.
Dì Nga bây giờ ở đâu, chắc làm ăn cũng khá hơn, nên gửi tiền qua Bưu điện về cho Bố nhiều hơn. Qua cơn đói xuýt chết, giờ hoàn hồn, mọi người lại nháo nhác tìm nhau. Vợ tôi dù giận, nhưng vẫn mong dì Nga về chơi. Giấy gửi tiền cho ông Đồ Ba, Dì Nga không ghi địa chỉ của mình, chẳng ai biết đâu mà tìm...
... Chỉ có nhãng đi một thời gian không qua quán “Con Lai” mà lần này trở lại tôi đứng dụi mắt: Trên nền xưa giờ mọc lên một toà “lâu đài” nguy nga với biển đề “Nhà hàng châu Âu” cao bẩy tầng, rộng cả ngàn mét vuông, trấn ngự giữa ngã ba nơi đang trở thành một khu đô thị sầm uất...
Tôi vẫn chưa bỏ nghề “chạy chợ”. Bây giờ tôi đi mua vét cá quả, ba ba về bán cho các khách sạn.
Lần ấy tôi thồ một sọt cá vào “Nhà hàng châu Âu”. Không khí ở đây náo nhiệt. Xe Méc xê đéc, Cam ry bóng lộn đỗ san sát ngoài cửa. Thay vì các bác lái xe tải, giờ đây là các doanh nhân, các VIP, ra vào tấp nập. Họ đến đây, tìm cảm giác sang trọng châu Âu từ cô chủ tóc vàng mắt xanh đẹp như thiếu nữ trong tranh cổ điển thời Phục hưng.
Cà phê tuyệt hảo Italia, thịt bò Ôtstrơlâya, rượu vang Pháp, Cô nhắc Xcốt len... tất cả ở đây đều chuẩn mực. Khách hàng phần lớn tiêu bằng tiền mệnh giá 500 ngàn, và không thèm dò ngón tay út kiểm tra từng mục trong hoá đơn thanh toán.
“Thiếu nữ trong tranh Phục hưng” đi đi lại lại, mỉm cười, gật đầu chào hoặc bắt tay với người này người khác dù là gốc Nga, nhưng Liên không “Tờ-rát-vui-chia”, “Đát-sơ-vi-đá-nhì-à” mà toàn “Gút-moning”, “Hello”, “Hai”, “See you a gain”.
Sau khi nhận tiền bán cá, tôi rửa sạch chân tay tanh tưởi, tìm một bàn khuất, cũng gọi một chai bia nhâm nhi. Tội gì tôi không thưởng thức “không khí châu Âu” ở đây. Muốn sang châu Âu, phải làm hộ chiếu, đi máy bay, thuê khách sạn tốn vài nghìn đô la, đằng này chỉ mất tiền bán một con cá quả, là tôi có thể vểnh râu ngắm “cô gái châu Âu”... Uống hết chai bia, tôi ngồi lỳ để kéo dài thời gian ngẫm nghĩ về sự “bốc” lên ghê gớm của bà chủ này. Hoặc giả muốn tò mò, chiêm ngưỡng mặt bà chủ một cái, bởi biết đâu bà chủ bất thần xuất hiện.
Một ông khách “bình dân” đồng cảnh như tôi, chung tâm lý, ngồi cạnh, bắt chuyện:
- Bà chủ mới giầu vọt lên, sau khi bắt bồ được với một ông Mỹ. Vẫn là từ con đường “nhân viên kỹ thuật vườn hoa” bà vào làm trong tư gia một ông chủ Hoa kỳ đầu tư dầu khí. Rồi hai người “yêu nhau”, rồi đẻ con. Vẫn bài bản cũ. Bà ấy sẵn sàng đẻ con với toàn thế giới. Hư hỏng lắm. Nhưng... “chẹp” - người khách chép miệng - Bù lại thì bà ấy giầu. Đạo đức nghĩ cho cùng cũng chỉ là quy ước từng thời. Mí lại, người ta không có chồng, người ta yêu ai, ngủ với ai, kệ người ta, đâu phải vô đạo đức. Đạo đức mà “đói rét căm căm” thì cũng vứt đi. Cái giỏi của bà này là “chinh phục” được các ông Tây. Hay nói cách khác là làm thế nào mà các ông Tây đều thích ngủ với bà ta. Ban đầu thì Tây nghèo, dần dần thì Tây “đại gia”. Chán vạn đàn bà trên thế gian đấy, mấy ai đã được một ông tư bản Mỹ ngủ rồi cho tiền xây dựng cái “Nhà hàng châu Âu” vĩ đại này...
Công tôi đợi, quả được toại nguyện. Uống hết chai bia thứ hai, thấy có người từ trên xe hơi bước xuống, vào cửa hàng gọi:
- Liên ơi. Bảo mẹ ra xe.
Liên chạy lên gác. Một lúc bà chủ xuất hiện. Đậm đà, trắng trẻo, gương mặt sáng trưng. Trời... những nét của gương mặt vợ tôi. Chỉ có điều ở vợ tôi, cái nét ấy đã héo quắt đi trong mầu sương gió, còn ở người đàn bà này thì được trăng sao nhuộm vào cho rực rỡ lên.
Tôi đứng bật dậy, tiến sát. Người đàn bà quay lại, cũng giật thót, trân trân nhìn tôi.
18 năm. Dì Nga không về làng dù vẫn gửi tiền cho bố đều đặn, ngày một nhiều hơn. Vợ tôi thương nhớ em, nhưng giận em. Dì đi đâu, ở đâu, làm gì không ai biết. Họ mạc xì xào: chắc Dì là người lang chạ, nay người này, mai người khác; nên trốn biệt, không dám thò mặt về làng. Nhục nhã lắm. Có lúc ông Đồ Ba đã muốn quên hẳn Dì. Cầm tiền Dì gửi về mà tủi hổ. Bây giờ, đời sống khá rồi, không có tiền ấy, ông cũng không chết đói theo nghĩa đen.
Càng sau này tâm lý xấu hổ vì sự làm “điếm nhục gia phong” của Dì càng tăng lên trong lòng vợ tôi. Xấu hổ mà vẫn mong, mong người em biệt tích.
Người đàn bà này giống vợ tôi các đường nét. Bà là ai? Sao lại trân trân nhìn tôi...
- Xin lỗi... chị ơi, cho tôi hỏi...
- Anh là... là... anh ở đâu...
Cả hai cùng ngờ ngợ. Giọng nói vẫn như xưa. Gương mặt có thể thay đổi theo thời gian, nhưng giọng nói thì không bao giờ thay đổi. Nhận ra ngay âm sắc.
- Anh tên là Thực phải không - Người đàn bà hỏi trước.
- Trời! Dì Nga!..
... Chúng tôi lên gác. Phòng khách lộng lẫy, có cặp ngà voi châu Phi cong vút.
- Dì Nga giờ giầu có sang trọng thế này ư. Thế mà cả làng không ai biết - Giọng tôi dỗi hờn - Chị Song và các cháu của Dì suýt chết đói, mới được hồi phục, nhưng vẫn chỉ là ngày hai bữa cơm tẻ no bụng mà thôi...
- Thì em cũng mới khá được thời gian gần đây. Định bụng ổn định nề nếp nhà hàng, rồi về xây nhà mới cho thầy em ở, và đỡ đần anh chị...
- Khá một cái là Dì phải về ngay chứ lị - Tôi lý sự.
- Em có phần khó của em. Trong con mắt cả làng, chắc em là đứa hư hỏng, xấu xa lắm. Vậy thì chường mặt ra trước họ có ngại không? Trốn biệt đi là hơn. Rồi tìm cách khác, thế nào đó, dần dần...
Điều khổ tâm nhất của em, là mắc tội “bất hiếu”. Biết mà không làm thế nào được. Đành ngầm nhờ chị Song gánh vác việc chăm sóc cha già, còn em gửi tiền về. Bây giờ giầu có, em sẽ đền đáp công lao dưỡng dục của thầy em thật xứng đáng. Nhưng vẫn ngại Cụ cố chấp. Đang nghĩ cách làm sao cho ổn thỏa. Cụ có chấp nhận ba đứa cháu lai Tây kia không? Hay Cụ lại phẫn uất sinh ốm thì em lại mắc tội to hơn nữa. Thà khuất mặt đi, trăm sự nhờ chị Song còn hơn...
- Ôi dào - Tôi gạt đi - Dì mà về bây giờ, còn hơn Trạng Nguyên vinh quy. Dì cho họ nội tộc mỗi người vài trăm ngàn, xây toà nhà to cho cụ Đồ Ba, cưu mang chị Song và lũ con của chị. Nhất dì, không ai bằng.
- Anh đơn giản quá. Chị Song không dễ tính như anh đâu. Chị ấy giận em lắm. Còn khinh là đằng khác ấy chứ.
- Bố ai dám khinh người giầu.
- Không khinh thì cũng ghét. Bao vây, tẩy chay. Thà cứ “khuất mắt” đi là hơn.
- Anh mách Dì cách này nhé. Dì về tuyển con cháu họ mạc nhà mình ra đây làm nhân viên cho “Nhà hàng châu Âu”. Đuổi hết các nhân viên hiện tại đi. Thay thế toàn bộ. Thế là họ mạc coi Dì như ân nhân, đố ai dám hé răng. Còn anh sẽ làm tổng đại lý độc quyền thu mua thực phẩm cho Dì...
- Không được. Nhân viên ở đây phải được đào tạo bài bản. Con cháu ở quê ra, cậy thần cậy thế bà chủ, vô kỷ luật, sẽ làm hỏng hết. Riêng anh, và ai đó, nếu tốt, đủ tiêu chuẩn thì em sẽ thâu nhận để làm từng việc thích hợp.
- Chị em như hai giọt nước. Em không cho chị Song một cái nhà gác hai tầng hay sao?
- Đấy tư tưởng của anh như thế là hỏng. Anh chị sẽ không quý cái nhà ấy đâu. Cứ dần dần, em tạo công việc cho anh, chị; nuôi các cháu ăn học lên đại học. Rồi chúng sẽ nên người, tự lập...
Dì Nga dừng chuyện:
- Em phải đi làm bây giờ. Xe đang đợi.
- Giàu có thế này vẫn phải đi làm sao?
- Vẫn phải làm những việc thích hợp.
- Dì lo cho tương lai con cái Dì như thế nào?
- Bố cháu Hen ri người Mỹ, sẽ về Mỹ học. Bố cháu Ka lích người Thuỵ Điển, sẽ về Thuỵ Điển học. Còn cháu Liên, lớn nhất, ở lại trông coi nhà hàng.
Mở tủ, Dì Nga cho tôi một xấp tiền:
- Anh cầm lấy về chi tiêu. Hôm nào dẫn chị Song ra đây. Xem thái độ chị ấy thế nào đã. Xem chị ấy có “thống nhất” được tư tưởng với em không. Rồi mới bàn kế hoạch tương lai.
- “Thống nhất” quá đi chứ lỵ.
- Cũng nhờ anh dần hé mở tình trạng của em hiện nay, với thầy em, thăm dò phản ứng của Cụ. Nếu thuận, thì em sẽ về ngay. Bằng không phải tìm cách khác mà báo hiếu...
Điều này nữa. Không được vội loan báo cho cả làng biết địa chỉ “Nhà hàng châu Âu” này của em. Nếu không, em sẽ không cho anh tiền nữa đâu.
Tôi cười ngỏn ngoẻn: Lời dặn của Dì ai chả phải nghe. Nhưng còn nói vớt:
- Dì cứ lấy tiền bạc ra “giẫy”, tình nghĩa mới quan trọng chứ.
- Nhưng em không cho anh tiền hôm nay, thì anh có cho em là người có tình nghĩa không?
- Dì nói đúng quá.
Chiếc Camry bóng nhoáng đưa dì Nga vút đi. Tôi đứng trân trân nhìn theo. Rồi quay về “khởi động” chiếc xe đạp thồ cá tanh tưởi.
Từ “Nhà hàng châu Âu” vọng ra tiếng nhạc sôi động. Tôi lặng lẽ đạp xe. Gió đồng lồng lộng. Tôi sẽ nói với cụ Đồ Ba, với vợ tôi như thế nào về cuộc gặp gỡ dì Nga hôm nay...
Tân Mai, 5-5-2006








[1](1) Bối cảnh truyện là xã hội miền Nam trước năm 1975.
 vvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvv