Tháng giêng rộng dài câu Quan Họ

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

GIẤY BỌC MÀU TRẮNG TRONG

Em tặng anh món quà
Tinh hoa của trời đất
Kết tinh của ngà ngọc
Không giá nào bán mua

Món quà đẹp tinh khôi
Thiêng liêng em gìn giữ
Còn nguyên trong phong bao
Trắng trong màu tuyết phủ

Anh hãy mở gói quà
Cởi dây và giấy  bọc
Chiếc sơ mi em mặc –
Giấy bọc màu trắng trong
26-7-2014
NGUYÊN PHAN HÁCH


GIẢI CỨU
        Truyện ngắn
của Nguyễn Phan Hách

     Tôi nhận trách nhiệm của Công ty Du lịch thực hiện chuyến lữ hành cho nhóm Cựu binh Mỹ. Từ sân bay Nội Bài tôi đưa họ về khách sạn Sôphiten Hồ Tây. Buổi chiều đưa họ đến địa điểm di tích nhà tù Hỏa lò. Nhà tù Hỏa Lò xưa chiếm cả một khu rộng lớn phố Lý Thường Kiệt, giờ còn lại một góc nhỏ tượng trưng, nhường đất xây khách sạn Tháp Hà Nội nguy nga đồ sộ.
Giắc xi - người khách già nhất, là phi công Mỹ ném bom miền Bắc, bị bắn rơi năm 199X, từng bị giam ở nhà tù Hỏa Lò. Bây giờ trở lại, lòng bồi hồi khó tả. Người quay phim tư liệu của Đoàn chộp được những khuôn hình sống động khi Giắc xi, bước xăm xăm vào quá khứ.
- Trời ơi, không còn những gian phòng mà chúng tôi đã ở ngày xưa. Đây chỉ là không gian tượng trưng. Tiếc quá. Khách sạn thì xây chỗ nào chả được. Di tích nhà tù thực dân Pháp xây từ ngày xưa, mới là quý báu vô giá, làm bảo tàng chứ.
Giắc xi đứng như ngây dại. Hà Nội hôm nay nắng thu vàng rơi, mênh mang, lòng Giắc xi xao xuyến.
Giắc xi đến đây, năm ấy đã ngoài 40 tuổi. Người anh hùng trẻ trung lái máy bay Đồng minh đổ bộ lên Noóc măng đi, đuổi phát xít Đức, vinh    quang ngày xưa, giờ là tù nhân lặng lẽ trong bốn bức tường bức bối. Người phi công từng tung hoành trên bầu trời Địa Trung Hải xanh lơ rượt bọn quạ sắt Chữ Thập ngoặc, số phận run rủi thế nào mà giờ phải bó gối trong các cấu kiện xi măng ngột ngạt, mà chủ nghĩa thực dân cũ dựng lên, trong phong trào phương Tây thời đại cơ khí, nô nức đi xâm lược phương Đông thủ công.
Giắc xi xua tay không nghe lời thuyết minh bảo tàng. Ông cần không gian yên tĩnh để hồi tưởng…
Đứng cạnh Giắc xi là Xpenxơ trẻ hơn, nhưng tóc râu cũng trắng xóa, cũng là phi công thượng hạng của không lực Hoa Kỳ, lái trực thăng phản lực. Xpenxơ không bị tù ở đây, nhưng lại có kỷ niệm về sự thất bại ê chề tuyệt vọng trong trận giải cứu không thành trại tù binh Mỹ ở Sơn Tây. Đồng bộ, thêm Ôoen, anh lính biệt kích đi trên trực thăng của Xpenxơ, đi giải cứu trượt năm đó.
Ba anh lính về già, sống nhiều bằng hoài niệm, rủ nhau tìm “cảnh cũ người xưa”....
Sau nhà tù Hỏa Lò, mục tiêu tiếp là trại tù Sơn Tây. Chiếc Lanhcugiơ của Công ty Du lịch vượt mấy chục cây số qua cầu sông Tích đến địa điểm Xã Tắc (xóm Cầu Cộng - Trung Hưng - ngoại ô thị xã).
Buổi sớm mùa hè, vừa qua trận mưa đêm, vẻ hoang tàn của di tích trại tù Xã Tắc xưa càng gợi cảm xúc.
Những bức tường rêu mốc, trơ trụi ,của dẫy nhà mất mái chạy dài. Những bụi cây dại, bãi trống cỏ hoang, đường sỏi, thấp thoáng vài đoạn thép gai hoen rỉ.
Có gì buồn bằng cảnh phế tích   trại tù. Đây đúng là trại tù chính hiệu. Nó  xây lên để giam thường phạm. Sau năm 1965 được sửa sang để giam phi công Mỹ. Cuộc chiến tranh leo thang bắn phá hậu phương miền Bắc của Mỹ ngày càng ác liệt. Miền Bắc đâu chịu để lũ giặc trời hoành hành. Khắp nước, các trận địa cao xạ pháo, các dàn tên lửa mọc lên như nấm. Máy bay Mũ sau này thống kê lại trong suốt thời chiến tranh phá hoại, đã bị rơi vài ngàn. Phi công Mỹ tử trận. Số còn lại, vài trăm, bị bắt sống khi nhẩy dù .Trại Sơn Tây được thành “Khách sạn Hin Tơn” đón phi công. Hỏa Lò đã quá tải. 70 vị Pi lốt  Pi gia ma (Phi công mặc quần áo ngủ) được chuyển từ Hỏa Lò lên đây một đêm giá lạnh cuối năm 1968…
… Đoàn cựu binh Mỹ đứng ngẩn người trước phế tích hoang vu . Xpenxơ và Ôoen thì lăng xăng đi lại xác định vị trí mà ngày xưa họ đã hạ trực thăng, đổ bộ.
Ông Bạng, nhà ven đường, cạnh trại tù, người chứng kiến trận tập kích đêm 20-11-1970, giờ tự nguyện thành người “hướng dẫn du lịch nghiệp dư”. Ông thích làm việc này, có đoàn nào đến, là ông lăng xăng kể chuyện.
- Lúc đó tôi là chú bé con- ông Bạng nói - Nghịch l giời, l đất, táo tợn không biết sợ là gì. Ngày nào tôi chả loanh quanh khu vực này. Nó được rào chặt, biệt lập, có tháp canh, xe quân sự bịt kín ra vào lặng lẽ trong đêm. Dân làng nghĩ chắc là  kho hàng quân sự. Biết đâu lại là trại tù  phi công Mỹ .Nếu biết có phi công Mỹ, thể nào tôi cũng lẻn vào xem mặt. Chỗ nào tôi chả  đột nhập được. Tôi có thể leo qua cả cái tháp canh kia. Tổ chim sáo trên ngọn cây , tôi còn trèo  vắt vẻo.
Ông Bạng cười khà khà, phì phèo điếu thuốc Giắc xi vừa mời.
- Tôi chính là một phi công được chuyển từ Hỏa Lò lên đây - Giắc xi chỉ vào ngực. Tôi phiên dịch lại. Ông Bạng mở to mắt cười khoái chí ,vì gặp nhân chứng. Ông thường rất tự hào vì nhà mình gần trại tù ,và chứng kiến cuộc giải cứu không thành của Mỹ năm ấy.
Giắc xi nói:
- Ngồi trong xe kín mít, trời tối như bưng, từ Hỏa Lò đi, đêm ấy, tôi không thể nào phán đoán được hướng di chuyển. Chỉ biết xe chạy gầm gừ, xóc nẩy, không xa, rồi bị tống vào một căn phòng. Mới đầu tôi tưởng bị giam biệt lập, sau thấy được ra sân trại giao lưu với các bạn tù, được tập thể dục, tự nấu ăn lấy, đọc sách báo,… Ở đây toàn các anh hùng đi mây về gió cưỡi Người nhà trời (AD.6), Thần sấm (F.105), Con ma (F.4), Thập tự quân (F.8), Kẻ đột nhập (F.6), Ngôi sao chiến đấu (A.104), Cướp biển (A.7), Chim ó nhà trời (A.4)… bây giờ về đây lủi thủi nhìn nhau sượng sùng, chán chường, tuyệt vọng.
Chúng tôi được ăn uống không đến nỗi nào. Có bánh mì, rau xanh, thịt bò, dứa, chuối…
- Tiêu chuẩn ăn của các ông hồi ấy gấp 14 lần tiêu chuẩn của cán bộ chúng tôi đấy - Tôi đế vào.
Giắc xi gật đầu:
- Xin cám ơn – Ri cười - Nhưng dù có ăn hơn thế nữa, thì chúng tôi cũng chỉ mong thoát khỏi nơi này. Chúng tôi được đi lao động, xúc  đất, san nền... xây dựng nhà ăn, bể nước, khu vệ sinh. Trong lúc làm, nẩy ra ý định lợi dụng cơ hi này. Nhìn lên bầu trời, thỉnh thoảng có máy bay trinh sát không lực Hoa Kỳ bay qua, tôi biết họ hoàn toàn có thể chụp được những bức Không ảnh chi tiết về nơi này. Thế là chúng tôi bảo nhau ngầm trình bày các tín hiệu, xin giải cứu, báo cho Sở chỉ huy ở nhà. Những rãnh đào, đống đất , đống gạch được đổ hình khác thường, gợi tả các thông tin gây chú ý. Quần áo tù phơi trên dây thép ngoài sân được gấp tạo thành các chữ viết tắt SOS (cấp cứu), K (hãy đến cứu), SAR (tìm và giải thoát …).
Những việc làm tưởng như vô ích ấy, nhưng hóa ra đã góp phần nào cho Bộ chỉ huy ở nhà, sau những tháng năm phân tích hàng núi thông tin, bằng nhiều biện pháp khác nhau của ngành tình báo gián điệp,năm 1970, họ đã xác định được vị trí trại giam Xã Tắc này.
Chúng tôi nằm trong tù, ngày này qua ngày khác, lòng chán chường, nhưng không khi nhen nhóm hy vọng. Trại giam trống trải giữa đồng, những vòng canh gác không lấy gì làm dày đặc. Các trạm đồn trú của quân đội không ở sát nách. Vị trí chơ vơ này, trực thăng biệt kích Mỹ có thể đột nhập. Trong chiến tranh thế giới thứ Hai, máy bay Đức đã giải cứu được Mutxôlini khi bị giam, và nói chung những chuyện tượng tự như thế thường xuyên xảy ra.
- Tôi được tuyển chọn vào Đội Giải cứu với sự tự kỳ vọng mình sẽ  là người anh hùng. Và  tôi đã quả thật dũng cảm tài ba , khi lái chiếc trực thăng khổng lồ HH-53 đậu xuống được  sân tại tù  Xã Tắc này-
Xpen xơ nối tiếp câu chuyện - Càng trực thăng vướng dây thép, cánh quạt dài 62 bộ băm nát các ngọn cây, cuối cùng đụng một thân cổ thụ, và bổ nhào. Tuy vậy trực thăng  đã tiếp đất . Và đội biệt kích do anh Ôoen đây dẫn đầu đã lao xuống, thọc được vào các phòng giam…
Nhưng thôi, để có giây phút này,  tôi phải nói lại những gì đã diễn ra trước đó .Hồi ấy, tôi đang là ngôi sao với bao huyền thoại về thành tích bay hàng ngàn giờ cùng nhiều  cuộc giải cứu phi công phản lực bị bắn rơi ở Đông Nam Á.
Tôi được triệu tập về trên tinh thần tình nguyện. Có mặt toàn những tay lái siêu hạng. Có người từng lái HH3 bay một mạch từ New york sang Paris. Có người là sĩ quan huấn luyện bay của chương trình Apolo.
Chúng tôi tập trung tại một căn cứ ở Phờloriđa, tập dượt. Họ dựng mô hình nhà tù tỷ lệ 1/1 như thật, đúng từng chi tiết có được từ các bức Không ảnh.
Đoàn bay được xác định là phải tránh được trạm các Ra đa phát hiện, tránh đòn của hệ thống pháo Phòng không dày đặc ở Bắc Việt. Vì vậy phải tập  bay ngoằn ngoèo bên sườn các dãy núi đá nhọn nhấp nhô. Bay thấp, bay  đêm, có khi xà xuống  sát ngọn cây. Lại phải bay ép  tốc lực, cực kỳ nguy hiểm. Chỉ cần sai sót một chút là va quệt, rơi tan xác.
Các toán biệt kích được tập luyện đổ bộ trên sa bàn, làm đi làm lại thuộc lòng như cháo chẩy…
… Ôoen có lẽ là người trẻ nhất trong nhóm du lịch. Gương mặt hầm hố, trông anh giống một cầu thủ bóng đá hết thời, cố níu kéo phong độ cũ. Ôoen chỉ Xpenxơ:
- Tôi “vinh dự” được chỉ huy tốp biệt kích ngồi trong chiếc HH.53 của anh Xpenxơ lái. Nhiệm vụ của chúng tôi nặng nhất. Các tốp khác triển khai chiến đấu xung quanh, trực thăng hạ ngoài bãi trống. Riêng HH.53 phải đậu xuống chính sân trại tù…
Gần đây, các anh xem ti vi, chắc có biết chuyện biệt kích Mỹ “xuất qu nhập thần” bay vào nước Pakixtăng giết trùm khủng bố quốc tế khét tiếng Bin la đen lập chiến công chấn động thế giới.
Họ giỏi như thế nào, thì thế hệ trước, trình độ chúng tôi cũng chẳng kém.
Xpen xơ vỗ vai Ôoen:
- Các biệt kích được tôi luyện xương đồng da sắt, thành “siêu nhân”, sức chịu đựng khác hẳn người thường. Không hiểu cái gì làm nên sự linh hoạt, dũng cảm như thế.
Ôoen trầm ngâm:
- Hàng trăm biệt kích tham gia vụ này, và muốn thành “người hùng” giống như “Người Nhện”, “Người Dơi” trong phim Hôlyút miêu tả... Tôi còn nhớ, sau một thời gian luyện tập, đêm 6-10-1970, là cuộc tổng diễn tập bắn đạn thật. Tinh thần anh em khí thế ngùn ngụt, chỉ lo vì lý do gì chiến dịch bị dừng lại.
Tôi được biết trong cuộc họp của Tổng thống Ních Xơn với các tướng ta, tổng thống đã hỏi:
- Có chắc chắn giải thoát được tù binh không?
Các tướng tá đã cam đoan chắc chắn.
Kế hoạch là tất cả sẽ chỉ diễn ra trong 27 phút là xong việc. Quanh Sơn Tây có tới 12 ngàn quân Bắc Việt đóng. Nhưng khi được báo động chiến đấu, cũng phải 30 phút sau mới đến kịp. Các sân bay quân sự Phúc Yên, Kép ...rất kém về hệ thống báo động, cũng như phương tiện kỹ thuật để chiến đấu ban đêm.
Xpen xơ bổ xung:
- Phụ trợ cho chiến dịch này Bộ chỉ huy đã hợp đồng với các đơn vị khác, để nghi binh. Hàng trăm máy bay từ các hạm đội ngoài khơi sẽ đánh phá dữ dội  ở Hải Phòng để hút sự chú ý của phòng không Bắc Việt về phía ấy, mà lơi là mặt trận Sơn Tây.
- Ngày 18-11-1970, chúng tôi được chở từ Mỹ đến phi trường Tắc li (Thái Lan), bay hết đúng một ngày một đêm. 6 giờ tối, toàn đội lúc bấy giờ mới được phổ biến sẽ đổ bộ vào sâu nội địa Bắc Việt. Trước đó chỉ biết tập trên sa bàn chung chung…
Xpen xơ hào hứng ôn chuyện:
- Đoàn trực thăng 5 chiếc lên đường lúc 23 giờ 18 phút ngày 20-11-1970. 2 chiếc C141 để trống, không tải, chờ đón 70 tù binh được giải cứu. Chiếc C130 với khí cụ bay đặc bit, với hệ thống hồng ngoại, dẫn đường. Tất cả lừng lững lao trong màn đêm.
Từ sân bay U đon, bay dọc biên giới Lào Việt , được tiếp dầu trên không, rồi ba giờ sau, vào đến không phận Bắc Việt. Trăng sáng lờ mờ. Tôi cho chiếc HH-53 hạ thấp độ cao cách mặt đất 150 mét. Sông Đà hiện lên lấp loáng, và lờ mờ hình núi Tam Đảo.
2 giờ 17 phút đến Xã Tắc, Sơn Tây.
Chiếc C130 bắn pháo sáng rực trời. Đoàn trực thăng xà xuống.
Chúng tôi nhìn rõ ba chiếc  tháp canh của trại tù. Súng Gát linh gắn bên sườn trực thăng nhả đạn. Tháp canh đổ xụp.
Đoàn trực thăng thả 100 lính biệt kích xuống các vị trí chiến đấu rồi đáp xuống bãi trống. Cánh quạt để thường trực quay tít. Như đã nói lúc nãy, tôi cho HH.53 đậu xuống chính sân trại. Đỗ xuống tiếp đất được tại đây là một thành công lớn.Suốt dọc đường chúng tôi đã không bị ra đa phát hiện, không bị pháo và tên lửa đánh chặn.
Ôoen cười khì khì:
- Đoàn biệt kích xả súng, giật mìn làm náo động cả một vùng. Còn nhóm của chúng tôi từ chiếc HH-53 trong sân trại, lao ra đập cửa các phòng giam, gọi loa: “Chúng tôi” là người Mỹ, chúng tôi đến giải cứu các anh…” Đáp lại, tất cả trống không. Các phòng giam hoang vắng, không một bóng người. Toàn khu trại, không một tiếng súng chống trả của quân Bắc Việt.
- Sục tìm tất cả các nơi.
- Có tìm thấy ai không?
 Chúng tôi quát gọi nhau.
- Báo cáo không thấy ai cả.
- Báo cáo không một bóng tù binh.
- Sục tìm lần cuối cùng trước khi rút.
- Lần cuối cùng.
- Kiểm soát xem còn sót nơi nào không?
Đèn pin quét loang loáng những căn nhà bụi bậm, ẩm mốc.
- Không tìm thấy một ai cả.
- Không tìm thấy một ai cả.
Tiếng báo cáo tuyệt vọng, đau đớn.
Cuộc tập kích đã diễn ra được 18 phút. Còn 9 phút nữa, phải rút theo kế hoạch, bởi cũng theo kế hoạch, 30 phút là đủ thời gian quân Bắc Việt quanh đây sẽ đến. Phải rút trước 3 phút.
Cuộc tập kích thật gan dạ, thật anh hùng, nhưng đã thành người hùng Đông ky sốt đánh nhau với cối xay gió. Thật khôi hài, nhục nhã, ê chề.
Trong lịch sử “biệt kích” chẳng có cú nào đau bằng cú này. Tốn bao công sức mà kết quả âm. Bao nhiêu “bộ óc chiếc lược” siêu việt của các tướng tá chóp bu, bao nhiêu năng lực của  hệ thống tình báo bậc nhất thế giới, bao nhiêu săn sóc lo lắng của Tổng Thống, bây giờ tất cả thành trò hề...
- Tôi cho kích hoạt phá hủy chiếc HH53 bằng thuốc nổ cài sẵn vì nó va quệt đã hỏng, không thể bay lên được nữa. Xpenxô nói - một tiếng nổ xé trời như là dấu chấm hết cho cuộc giải cứu vô duyên. Khắp nơi lính biệt kích chạy như vịt về các trực thăng ngoài bãi. 2 giờ 44 phút, đoàn trực thăng bốc lên.
Đúng thời hạn 27 phút. Hai chiếc C141 “không lấy được hàng”, rộng rênh, trở về. Chuyến đi hăm hở bao nhiêu. chuyến về ỉu xìu, tuyệt vọng bấy nhiêu.
Điện đài thông báo về Sở chỉ huy ở nhà kinh hoàng rụng rời cả Tổng thống…
...Ông Bạng, hiểu lõm bõm câu chuyện của nhóm cựu binh Mỹ qua lời tôi phiên dịch. Nhưng ông cần gì câu chuyện đó chính ông đã  được “mục sở thị” nó tại đây.
- Hôm đó tôi đang ngủ - Ông nói - Quá nửa đêm choàng thức dậy vì nghe tiếng cánh quạt trực thăng gầm rú như gió bão.
Mới đầu tôi nghĩ máy bay ta tập trận. Vùng đi Sơn Tây này hồi đó lúc nào chả có bộ đội đủ các binh chủng nườm nượp luyện tập. Pháo binh bắn đạn thật, nổ vang trời, nghe sướng tai. Bộ binh dàn quân. Xe tăng quần đảo, kém gì trong phim Vòng Cung Cuốc của Liên Xô ngày xưa.
Bây giờ đến trực thăng tập đổ bộ. Tôi dụi mắt, mở cửa liếp ra ngoài. Trước mắt, bóng những người cao lớn, đội mũ sắt xì xồ chạy đi chạy lại. Đạn xé lên. Pháo sáng rực trời. Không phải bộ đội mình. Tôi kinh hoàng nghĩ. “Kho hàng quân sự” của ta trong kia đã bị bỏ hoang nhiều tuần nay. Không còn bóng xe vào ra. Bộ đi canh gác đã rút hết. Chỉ còn mấy anh bảo vệ ốm yếu trông coi lấy lệ. Vậy thì biệt kích Mỹ đến đây làm gì.
Chiến dịch mà Tổng thống Mỹ hồi hộp đợi chờ từng giây từng phút ngày ấy hóa ra  kết quả chỉ thắng lợi là bắn chết được hai đứa trẻ con và một người đàn bà bên cạnh nhà tôi, đang nấp dưới gầm giường…
Còn tôi, cũng đừng hòng làm gì được tôi, vì sau khi biết được “ý đồ chiến dịch” của đối phương, tôi chạy vọt vào một bụi rậm. Từ “căn cứ chiến thuật” này, tôi phóng tầm mắt quan sát lính biệt kích hốt hoảng lên máy bay rút chạy.
Ông Bang cười vang. Cả đoàn cựu binh Mỹ cùng cười. Họ không tự ái. Chính họ cũng chế riễu cuộc tập kích.
Giắc xi chua chát:
- Đêm 20-11 ấy, chúng tôi bị giam ở một trại tù mi, chỉ cách Xã Tắc 15 cây số. Nghe những tiếng nổ chấn động từ Xã Tắc vọng đến, chúng tôi cay đắng chết lặng, gục xuống sàn khóc.
Trời ơi, sao đi lại trớ trêu thế này. Chỉ cách 15 cây số. Một cái nhún của trực thăng... Chúng tôi bị chuyển đến đây trước đó vài tuần. Không hiểu vì sao nửa đêm đùng đùng xe chở đi. Nhưng nào có đi xa. Vậy mà không ai biết. Hùng hổ đổ quân tập kích xuống chỗ không người. Bọn chỉ huy ở nhà ngu dốt đến thế là cùng.
Năm 1972 Bắc Việt biết trước cuộc tập kích B52 vào Hà Nội trước 3 giờ. Máy bay B52 ở Guam và Utapao được nạp đầy xăng vào giờ nào, Bắc Việt cũng biết. Thế cơ mà. Còn ở đây, cái trại tù lồ lộ giữa đồng không mông quạnh, mà bọn tình báo Mỹ lừng tiếng giỏi giang, không làm được trò gì. Một lũ  ăn hại...
Cuộc tập kích thất bại bộc lộ sự quan liêu, máy móc, kiêu căng, chỉ trông cậy vào kỹ thuật của cả hệ thống Mỹ  .“Không ảnh” ...ảnh thì vẫn đúng  thế đấy, nhưng cái gì bên trong ảnh đã khác rồi....
Sau này về Mỹ, ngẫm nghĩ, tôi rút ra một điều là lý do Việt Nam chiến thắng, một phần là nhờ đường lối “chiến tranh nhân dân”. Phía Mỹ, thiếu cái phần “nhân dân” kia, nên không có tai mắt, không ai bảo cho biết: trại tù đã chuyển…
… Một ngày tha thẩn ở di tích trại tù Xã Tắc, những người cựu binh Mỹ để cho nắng gió ở đây ngấm vào mình. Giắc xi còn nhặt một mảnh gạch vỡ, và khăng khăng đó chính là gạch từ  phòng giam ông  ngày trước. Ông nói sẽ về trưng bày trong tủ kính tư gia tại Mỹ. XpenxƠÔoen thì đi tìm cái gì là dấu tích của cuộc hạ cánh chiếc HH-53 . Không có gì cả. Một mẩu kim loại cũng không còn. Cuối cùng hai người nhổ một bụi cỏ  kẽ gạch sân trại, ép vào quyển sổ. Những ngọn cỏ xanh rờn phủ khắp nơi đây...
 Giắc xi cầm tay tôi, cảm khái:
- Tôi đã quá già, đã đi gần hết cuộc đời. Tôi đã sống trong lòng thế kỷ 20 cuồng phong bão lửa, thế kỷ mà qua đấy người ta có thể rút ra được những gì là chân lý cơ bản nhất của cuộc đời.
Chúng tôi là anh hùng, là có lý tưởng khi cưỡi máy bay đuổi đánh phát xít Đức trong chiến tranh thế giới thứ Hai. Nhưng chúng tôi thật là vô lý khi đem máy bay đến dội bom trên đất nước Việt Nam hiền lành.
Năm 1973, được “trao trả tù binh”, về Mỹ, tôi thường ngồi Thiền và đọc sách. Tôi ngộ ra rằng loài người lắm cái vô lý thật. Vận dụng hết mọi sự tài ba ra đánh nhau. Mặt đất mênh mông, chúng ta cùng sống bên nhau dưới ánh mặt trời có phải tốt hơn không?
Chúng tôi hôm nay đến đây chính là góp thêm một tiếng nói cho chân lý ấy…
Đại Yên, 20-6-2014



 Trai” làng quan họ”  nhớ về hương
“hoa sữa”



                                                     Huy Thắng




          Hồi này tôi luôn có dịp gặp nhà thơ Nguyễn Phan Hách. Khi thì ở nhà Vũ Từ Trang, nơi tụ họp văn chương, bè bạn, khi thì cùng trên đường về một nơi nào đó xa Thành phố. Nhưng thừơng là ở căn hộ của ông sau chùa Bát Tháp, trong một con ngõ nhỏ khó tìm khuất trên phố Đội Cấn. Tôi ở khu Núi Trúc, ngỡ xa nhưng nếu xuyên qua một con đường tắt  thì sang nhà ông cũng rất gần. Đến ông thì chỉ toàn chuyện vui.

         Đã vào tuổi “ xưa nay hiếm ” nhưng gặp ông luôn nghĩ ông còn trẻ vì quần áo lúc nào cũng tươm tất, thoảng mùi nước hoa đắt tiền, mái tóc loà xoà che hết mặt  Ai trách ông làm dáng ,  ông không tự ái hay đỏ mặt mà chỉ cười. Ai hiểu sao cũng được.Tất nhiên có lí do. .  Người thân  đi nước ngoài về thường tặng ông những lọ nước hoa đắt tiền. Tội gì không dùng  ...
      . Ấn tượng về  ông  đầu tiên thường là  là nụ cười  rất cởi mở của ông   . Không dễ mấy ai có gương mặt thường  hồn nhiên đến vậy, nhất là ở một người đã cao tuổi.

         Các cụ xưa nói:” Trông mặt mà bắt hình dong”, liên hệ tới nhà thơ  người Kinh Bắc này càng thấy đúng.

        Gương mặt ấy, nụ cười hồn nhiên ấy chỉ có ở người tốt. Tốt ra sao, xin nói sau. Giờ nói về ông ở lĩnh vực văn chương. Nguyễn Phan Hách ,  vào nghề sớm, có lí do, đâu từ lớp năm, lớp sáu gì đó ông đã có cái truyện ngắn nho nhỏ được in trên báo Văn Nghệ, là sự hiếm. Lúc người bưu tá , đem báo biếu và nhuận bút đến, thấy ông còn trẻ con liền bảo:  -  “Nói với bố ra nhận báo biếu và tiền nhuận bút con nhé.” ...
      Nguyễn Phan Hách  được đông đảo quần chúng  biết đến  từ khi có bài hát “ Làng quan họ quê tôi “ được Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc .

     Sông Cầu làm bao xanh/ Ngang lưng làng quan họ/ Những cánh buồm nhớ thương/ Câu ca đầu ngọn gió/... Tháng giêng mùa hát hội/ Áo nâu ướp hương trầm/ Nón thúng quai thao rủ/ Buông dài nếp sống thâm/ ...Cửa đình hồ bán nguyệt/ Chị cả tựa mạn thuyền/ Anh hai ngồi bẻ lái/ Quan họ về trao duyên…

      Những câu thơ đọc mang đầy nhạc cảm như thế hẳn giúp người nhạc sĩ thêm thăng hoa ?.

        Nhưng không chỉ có “ Làng quan họ “ mà khi nói đến thơ Nguyễn Phan Hách  rất nhiều người còn biết và nhớ đến bài thơ “Hoa Sữa “của ông. Không ít  thế hệ sinh viên, những người thiếu nữ từng  chép  bài thơ này trong sổ tay và ngâm nga mãi. Sau ông phải in riêng bài thơ dưới hình thức kiểu bưu ảnh với số lượng khá lớn mới đủ đáp ứng yêu cầu những người yêu thích:

…Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan trong sương gió mong manh…

        Bài thơ mang một chút buồn man mác, riêng tư.

        Tôi nhớ một kỉ niệm lần cùng ông và nhà thơ Vũ Từ Trang lên thăm mấy nghệ nhân đoàn quan họ tại nhà nghệ nhân Vũ Tự Lẫm trên Bắc Ninh. Mấy chị quan họ nổi tiếng từ khi mới thành lập đoàn nhưng nay sau mấy chục năm, đã già rồi, gần hết thanh sắc rồi nhưng vẫn còn náo nức lúc đàn phách tấu lên. Khi nhà thơ đưa tặng các bà  thơ,ban đầu các bà hỏi , thơ mới à ?  Khi biết là “ Hoa sữa” thì bà nào bà ấy bảo, bọn này thuộc lòng cả rồi,nhưng cứ  cho chị em chúng tôi mỗi người một bản để  làm  kỉ niệm.”

         Nguyễn Phan Hách là một người  lắm bạn bè. Nhóm này, nhóm khác, mỗi khi đi đâu ,lúc sắp xếp “ nhân sự “ thường thấy tên ông. Đúng là đi  xa mà có ông, , không khí  thấy rộn ràng, vui vẻ lắm. Ấy là bởi ông thật thà, cởi mở, nhường nhịn. Ai trêu trọc gì ông, ông cũng chỉ cười  và chấp nhận.

          Ông thường tâm sự, khi giữ cương vị giám đốc nhà xuất bản Hội nhà văn, ông trăn trở  muốn có một bộ tổng tập thơ của Việt Nam suốt nhiều thế kỉ, tính in trọn bộ cũng ước chừng 30 tập, mỗi tác giả  có thể chọn tới  20 bài, gọi chung là:” Tinh hoa thơ Việt”..Kinh phí từ tiền tài trợ hàng năm của Nhà nước Nhưng tiếc quá, mới ra được ba tập thì ông nghỉ hưu ,và người thay ông không mấy mặn mà ,nên kế hoạch nhằm tôn vinh thơ hay và các nhà thơ nổi tiếng Việt nam, đã không thành. Đến tận những ngày này mà ông vẫn luôn tiếc nuối để lỡ mất một cơ hội ..Là người gần gũi ông , tôi thật sự nhận  thấy ra cáiTâm của ông. Và tôi  mơ hồ rõ ra lí do vì sao, văn chương của ông chưa thật ở hàng đầu, nhiều người khác  tài năng, thậm chí nổi hơn nhiều , nhưng khi vị giám đốc cũ của  nhà xuất bản  Hội nhà văn  về hưu , thì người ta đã  lựa chọn người thay thế  là ông, . Rồi  sau này , khi  ông đến tuổi  nghỉ hưu theo chế độ ,thì nhà xuất bản Dân Trí , lúc tìm người giữ trách nhiệm tổng biên tập  lại mời ông   . .

         , Trước đây,  khi ngành xuất bản chọn trao giải thưởng  hàng năm cho các cuốn sách xuất sắc ở Việt nam,   không  đề cử   mảng  sách văn học .Gần đây Tiểu ban Sách Văn học đã được thành lập  .  Nguyễn Phan Hách tham gia  với cương vị trưởng tiểu ban . Nhà thơ  được các thành viên  trong hội đồng  đánh giá là một người công tâm, khách quan, thẩm định chính xác khi tham gia xét tặng giải thưởng,   Trong mấy  năm liền ,tiểu ban  đã đề xuất, bảo vệ sách của hai nhà văn nổi tiếng giành được giải thưởng của hội đồng rất xứng đáng. Tuy là giải bạc, chưa phải vàng,  nhưng đều được các nhà văn vốn cao tuổi nghiêm khắc  và ktính là nhà văn Hoàng Quốc Hải và nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nhận giải vui vẻ,

       . Khi ông nhìn nhận, đánh giá tác phẩm để  đề xuất trao giải thưởng  có  sự khoa học , khách quan , chuẩn xác , và cả sự ưu ái .  Đôi  khi, ở đâu đó  nhìn nhận về tác giả hay tác phẩm nào đó, có người   thường  khe khắt , hoặc cảm tính yêu ghét cá nhân, không công bằng , nên khi đánh giá tác phẩm cũng mất đi cái khách quan.  Nguyễn Phan Hách  quan niệm, chẳng có gì là tuyệt đối  hoàn hảo, phải gạn đục khơi trong để nhìn nhận ,tôn vinh những giá trị thật đôi khi còn bị che khuất

         Khi nhận xét Nguyễn Phan Hách là người chân thật, là có lí do. Có người bảo ông quá thận trọng, nên khi cương vị giám đốc nhà xuất bản không mạnh dạn ra cuốn này, cuốn khác. .  Ông  giữ đúng trách nhiệm của mình . Để có quyết định về nó , ông phải hiểu kỹ về nó . Chính ông  là người biên tập các tác phẩm văn học đổi mới nổi tiếng như Nỗi buồn chiến tranh của  Bảo ninh , Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường , Bến không chồng của Dương Hướng. ..và trước nữa là các truyện ngắn như cánh én báo hiệu mùa xuân văn học đổi mới của Nguyễn Minh Châu...Nhưng có một vài bản thảo khác thì ông phải nói thật : cuốn đó không in  được đâu. ..

         Tính ông thế,  bảo vệ cái gì đúng. Còn những gì quá đà thì phải  thận trọng. Sự thận trọng cần thiết của người làm công tác xuất bản một thời .  Khi thấy ông thật thà giải thích thì mọi người hiểu và thông cảm. . Ai cũng nghĩ tuy ông là nhà thơ nhưng không lơ mơ , ngược lại rất có tính nguyên tắc . Đấy là khi ông  trong cương vị người quản lí.  Nhưng với cương vị người viết văn thì lại khác.Sau  khi ông cho xuất bản các   cuốn tiểu thuyết của mình  : “ Mê cung “ ,“ Người đàn bà buồn “,  ,  nhất là khi tiểu thuyết” Cuồng phong “ ra đời , thì mọi người hiểu thêm về  ông hơn . Ông không như những gì người ta vẫn  tưởng. Ông đầy mạnh mẽ và táo bạo. Có những trang, những chương miêu tả  đầy bạo liệt được viết với nhiều phong cách, khi hóm hỉnh traò lộng, lúc lại thấm đậm trữ tình. Nguyễn Phan Hách đặt ra trong tiểu thuyết của mình câu chuyện về những con người thuộc một gia tộc trải qua bốn thế hệ điển hình luôn vật vã giữa cuộc đời đầy bão táp ,để  thể hiện ý tưởng phản chiếu hiện thực xã hội đầy biến thiên của đất nước. Đọc mà  thấy một Nguyễn Phan Hách  hoàn toàn đổi mới trong văn chương .

       
  

         Nhiều người thường băn khuăn không biết gọi Nguyễn Phan Hách là nhà văn hay nhà thơ. Văn xuôi của ông thì đã ra mắt bạn đọc nhiều . Ông có trên mười cuốn , tiểu thuyết có, truyện vừa có, truyện ngắn có…và có tiếng vang. Nhưng nhiều người lại cho ông là nhà thơ, với các tập  ” Người quen của em “, “ Hoa sữa “  “ Vô tình “ Những ngôi sao tuổi thơ”,” Hạt bụi”....  Chàng trai xuất thân từ vùng quê quan họ  Bắc Ninh khi là nhà thơ là một tâm hồn lãng đãng , mộng mơ , còn khi là  một nhà văn thì là một kho kiến thức về đời sống hiện thực...   
Vườn hồng tàn lụi
                                      Truyện ngắn mi ni của Nguyễn Phan Hách

Nắng sớm chan chứa rọi trên vườn Hồng Nhung.
Ông Hen ri dạo quanh. Không tìm được bông nào đẹp. Giống Hồng Nhung thuần chủng này hoa thường to bằng vốc tay, đỏ chói. Ông Hen ri đã chăm bón hết cách nhưng sao vườn Hồng ngày một thoái hóa, xác xơ. Không thấy mùi thơm ngào ngạt bốc lên trong nắng sương ban mai...
Ông Hen ri già lão, run rẩy bước lò dò bên những luống Hồng còi cọt. Ngắt một bông, vò nhàu, nhựa  màu đỏ như máu dính vào tay.
 Đứng dựa  hàng rào, ông Hen ri ngắm gia trang của mình. Đồi xanh biếc, thông già phủ bóng. Tòa biệt thự mái đá đen có gắn hình Chim ưng cổ trắng – biểu trưng của gia tộc Hen ri.
Trên bậc thềm chan chứa nắng kia, như còn bóng hình ông Uyn xơn – cha của Hen ri, oai phong lẫm biệt, cành tùng kim tuyến trên ve áo, đang nheo mắt kẻ cả nhìn cuộc đời...
Bà Julia trong nhà bước ra. Bà cũng già nua tàn tạ như chồng. Vết nhăn đan lưới võng trên gương mặt. Ánh mắt vô hồn. Lưng lòng khòng, tay chống gậy.
Trên trời có tiếng quạ kêu đỗ xuống ngọn thông. Bà Julia giơ gậy xùy xùy đuổi. Âm thanh tiếng quạ gàn quải.
Thằng con trai tật nguyền lò dò đi theo mẹ. Thằng bé, bốn mươi tuổi, vẫn là thằng bé, người phủ lông đen xì, đầu to bằng nắm tay, mồm rớt rãi chảy dòng dòng.
Ông Hen ri dắt thằng bé, âu yếm, vào dạo vườn Hồng. Ngắt cho nó những bông hoa nho nhỏ…
***
Mấy mươi năm trước, Hen ri là chàng lính Thủy quân Lục chiến  ở miền Nam Việt Nam. Còn ông Uyn xơn thì là sĩ quan Bộ chỉ huy cuộc chiến. Hai cha con đồng ngũ, phục vụ trong quân đội viễn chinh.
Ông Uyn Xơn được giao một nhiệm vụ đặc biệt. Miền nhiệt đới, cây lá quá rậm rạp, đối phương ẩn nấp trong bóng lá rất an toàn. Phải vặt trụi những chiếc lá nhiệt đới kia đi, đối phương lộ ra trống trải, mới dễ tiêu diệt. Ông Uyn xơn giữ trọng trách Tổng chỉ huy đội phi công đi rải thuốc khai quang, diệt cỏ, diệt cây lá, trên khắp miền Nam, để Việt cộng không có chỗ ẩn nấp. Việt cộng sống dựa vào rừng. Những sư đoàn bộ binh, xe tăng, đại bác,kho tàng  quân nhu… gì gì đều ẩn dưới bóng rừng hết. Máy bay Mỹ trên trời có mắt như mù. Phải làm thế nào xé toang tấm áo Rừng kia, lôi Việt cộng ra ngoài trần trụi.
Lúc nhận trọng trách, ông Uyn xơn không hề biết tác dụng gây quái thai qua nhiều thế hệ F1, F2, F3… của chất khai quang Điôxin màu da cam. Các công ty Hóa chất, sản xuất theo đơn đặt hàng của các “Tác giả Cuộc chiến” cũng mù mờ. Có thể biết, có thể không. Chỉ biết Cuộc chiến đang yêu cầu ,và lợi nhuận là trên hết.
Những chiếc máy bay dưới quyền của ông Uyn xơn cất cánh,  phun sương Đi ô xin trải dài như một tấm lụa đẹp mắt. Hạt Đi ô xin rơi xuống, chiếc là xanh giật thót, quằn lại,  diệp lục biến hóa, rụng ngay khi chưa úa vàng.
Điôxin rơi xuống rừng, núi, dải đồi, cánh đồng, làng mạc, sông suối, ngấm vào lòng đất, mạch ngầm, chảy ra các giếng nước.
Lần ấy đơn vị của Hen ri tác chiến trong vùng bị rải Đi ô xin. Cây lá trơ trụi. Việt cộng mất chỗ nấp. Đơn vị của Hen ri không bị phục kích, đã hoàn thành chiến dịch. Hen ri được thưởng Huân chương…
Hết hạn phục vụ quân đội, hai cha con Uyn xơn - Hen ri xuất ngũ, trở về Mỹ sống cuộc đời bình thường. Gia trang “Chim Ưng cổ trắng” thơ mộng. Đồi cỏ, Thông già, hoa Hồng khoe sắc. Hen ri lấy vợ, cô gái Julia xinh đẹp, hăm hở xây dựng chương trình hạnh phúc.
Đứa cháu trai đầu là niềm trông đợi của Uyn xơn. Dòng họ ông không hổ thẹn, bởi các thế hệ giỏi giang, kiêu hãnh. Cụ tổ nhà Uyn xơn - Hen ri từ một vùng đồi cỏ nuôi cừu  sản xuất len nào đó ở nước Anh cổ kính ,đã di cư sang châu lục mới mà Cô lôm bô tìm ra.
Họ đã phải vật lộn, để xây dựng nên trang trại này. Họ nuôi bò lấy sữa, học hành, tham gia chiến trận, đến đời Uyn xơn đã đến đỉnh cao binh nghiệp. Họ không ngần ngại, cho đứa con trai duy nhất sang Việt Nam chiến đấu. Dòng họ này phải ghi những trang sử anh hùng cho lịch sử.
Đứa cháu nội ra đời, sẽ nối tiếp mạch nguồn, dòng họ trường tồn mãi mãi với thời gian.
Ngày đứa cháu sinh, như tiếng sét giáng xuống giữa thanh thiên bạch nhật, bổ đôi gia trang “Chim Ưng cổ trắng”. Hình xác chim Ưng còn đó, mà hồn nó đã hoảng hốt bay đi mất. Đứa cháu nội người đầy lông đen, và đầu thì bé tẹo.
Y tế xét nghiệm kết luận đứa bé bị quái thai do di chứng chất độc Đi ô xin từ người bố bị nhiễm ở chiến trường Việt Nam.
Ông Uyn xơn và Hen ri đóng cửa trong nhà, gào thét một mình. Hai người quân nhân kiên nghị, cắt thịt không đau, giờ mềm nhũn ra.
Cuộc đời đã cử một Sứ giả sản phẩm của ý tưởng chiến tranh, ý tưởng tuyệt diệt nhân loại, đến hiện diện, nối tiếp cho dòng họ Uyn xơn- Hen ri.
Cuốn sổ tay của ông Uyn xơn - một kỷ vật chiến tranh, còn đây. Những dòng mật lệnh cho các chuyến phi cơ chở Đi ô xin cất cánh. Những chữ ký của ông. Chữ ký của thần hủy diệt sự sống. Chữ ký phỉ báng quyền sáng tạo sự sống của Thượng đế.
Thượng đế đã trừng phạt ông, tạo nên một mô đen hài hước, bi kịch: Ông nội hạ lệnh rải chất độc lên con trai, để sinh ra đứa cháu quái thai nối dõi dòng họ cho ông nội.
Sổ tay ông Uyn xơn ghi rõ: Tổng cộng số lượng chất độc đã rải là 80 triệu lít, trong đó chứa 366 kg Đi ô xin. Một giọt Đi ô xin tạo ra đứa cháu nội ông . Vậy 366kg Đi ô xin  tạo ra bao đứa cháu tương đồng như cháu nội ông?
Ông Uyn xơn chết vì già lão, chứ không phải vì ân hận. Nếu ân hận tội ác chiến tranh mà chết, thì thế giới đã sạch bóng chiến tranh từ lâu. Không. Chiến tranh vẫn có muôn vàn “lý do có lý” để xẩy ra.
Đứa cháu tật nguyền “lại giống” tinh tinh, mọc lông đen xì cứ sống trong nhà Uyn xơn - Hen ri - Julia như để chứng minh một ADN không hoàn hảo nào đó trong bản thân sự sống.
Hen ri là nạn nhân, nhưng tại sao Hen ri lại đeo súng đến Việt Nam . Hồn ông Uyn xơn cãi : Ông chỉ làm phận sự quân nhân trong guồng máy chiến tranh. Rồi đến Tổng thống cũng nói: Đó là Lô gic của chiến tranh gây nên, chứ đâu phải Tổng thống.
Vậy là Lô gic gây ra tội. Ai là tác giả Lô gic? Thượng đế ! Cuối cùng là tại Thượng đế.
Gớm chưa, con người gây ra tội ác tày trời, giờ lý sự loanh quanh đổ lên đầu Thượng đế…
* * *
Ông Hen ri lẩy bẩy cầm chiếc cuốc xi xáo gốc Hồng. Một con sâu bò nhoay nhoáy từ cành này sang cành khác và đớp những cánh hoa. Ông Hen ri không đủ nhanh nhẹn để đưa tay đuổi theo con sâu. Nó thoăn thoắt lẩn vào cành lá. Tay ông Uyn xơn bị gai hồng cào xước máu. Máu rỉ, đặc quánh, và cũng không có nhiều để tụ lại thành giọt.
Giống Hồng này, tổ tiên ông Hen ri đem từ quê hương Anh Quốc sang. Nó quý, đẹp nổi tiếng. Bao đời nhà Hen ri trồng nó, phục tráng giống, giữ gìn cho nó nở hoa đã mấy  trăm năm nay. Nó gần như là biểu tượng của sức sống gia tộc.
Nhưng đến hôm nay, vườn Hồng đã lụi tàn.
12/8/2014





Bài gửi cuốn sách “Tác giả văn chương Việt Nam”

Nhà văn Nguyễn Phan Hách sinh ngày 13-1-1944. Quê Thuận Thành, Bắc Ninh, vùng quê có thành Luy Lâu, chùa Dâu, tranh Đông Hồ… thuộc miền văn hóa Kinh bắc với di sản dân ca Quan họ nổi tiếng.
Ông nội là nhà nho, mở trường dậy chữ Hán, thỉnh thoảng làm thơ dậy học trò: “Thày rằng chức cả quyền to /Càng giầu sang lắm càng lo vào mình…/Sớm ngày đèn sách thiết tha/ Người chăm đạo lý hóa ra thánh hiền”.
Học lớp 5 trường huyện, N.P.H đã biết viết một truyện ngắn nhỏ, được Tuần báo Văn nghệ đăng
Lớn lên, N.P.H đi dậy học vài năm, rồi được chuyển về Ty văn hóa Hà Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang) làm công tác sáng tác, biên tập, nghiên cứu văn hóa dân gian.
Nguồn văn hóa dân gian Kinh bắc phong phú đã khơi dòng cho anh sáng tác được nhiều thơ, truyện trong đó có bài “Làng quan họ” sau được nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc thành bài hát đi cùng năm tháng.
Năm 1973 N.P.H được điều về làm Biên tập thơ của Tuần báo Văn nghệ. Năm 1978 chuyển sang Biên tập văn xuôi của N.X.B Tác phẩm mới (nay là NXB Hội Nhà văn). Từ năm 1996 - 2008 anh là Phó Giám đốc, Tổng Biên tập, rồi Giám đốc NXB Hội Nhà văn. Về hưu, anh đảm nhiệm chức danh Tổng Biên tập NXB Dân trí từ đấy đến nay.
Tác phẩm chính:
* Tiểu thuyết:
- Tan mây             (NXB Tác phẩm mới 1983)
- Mê cung              (NXB Hội Nhà văn 1990)
- Người đàn bà buồn (NXB Hội Nhà văn 1994)
- Cuồng phong     (NXB Hội Nhà văn 2008)
* Truyện ngắn, truyện vừa:
- Tổ chim sẻ                   (NXB Tác phẩm mới 1978)
- Sau những cách xa (NXB Hà Nội 1983)
- Cây vĩ cầm cảm lạnh   (NXB Kim Đồng 1984)
- Quà tặng của thiên nhiên (NXB Lao động 1984)
- Khp ngựa ô      (NXB Tác phẩm mới 1987)
- Tình đùa            (NXB Hội Nhà văn 1996)
- Cô gái đầm sen (NXB Hội Nhà văn 2002)
- Thị xã và anh lính (NXB Dân trí 2013)
* Thơ:
- Hoa sữa (NXB Hội Nhà văn 2000)
- Vô tình (NXB Hội nhà văn 2006)
- Những ngôi sao tuổi thơ (NXB Dân trí 2011)
- Hạt bụi (NXB Dân trí 2013)
Giải thưởng:
- Năm 1969 và 1974 được báo Văn nghệ tặng giải thưởng Thơ
- 1994 được tạp chí Thế giới mới tặng Giải truyện ngắn mini.
- 1998 được tạp chí Tài hoa trẻ tặng giải truyện…….
Trong tự bạch N.P.H nói: “Tôi sinh ra là chỉ để làm nghề văn. Khát vọng sáng tạo là ân huệ tuyệt vời của tạo hóa ban cho nhà văn, và nhà văn tồn tại trong cuộc sống. Văn chương luôn gợi niềm hứng khởi với đời tôi. Tôi mang nó như một sứ mệnh”.
Ông khẳng định: “Nhà văn phải dựa vào tài năng, nghị lực của mình là chính. Nếu vượt qua được mọi khó khăn trở ngại, dám hết mình vì sự nghiệp văn chương, anh có thể như con cá gáy hóa rồng. Còn nếu không, thì cũng chỉ là nghề nghiệp kiếm sống”.
N.P.H viết đủ các thể loại. Các tiểu thuyết chính của ông đều có bối cảnh trải dài hơn nửa thế kỷ biến động dữ dội của đất nước. Ông quan niệm giá trị của tiểu thuyết một phần rất quan trọng là ở chỗ nó lưu giữ được những hình ảnh đã qua, đời sau đọc nó thấy được hiện thực cuộc sống đã diễn ra như thế nào, những triết lý mà nhà văn đã rút ra sau các trang sách.
“Mê cung” là truyện xoay quanh cuộc đời của một nhân sĩ đi theo cách mạng. “Người đàn bà buồn” là chuyện đời một tiểu thư con quan Nghè nổi chìm trong những tháng năm bão tố. “Cuồng phong” là chuyện một gia tộc bốn thế hệ trải dài từ thời các nhà Nho vận động Duy Tân đến nay.
Tiểu thuyết của ông, độ dài dày dặn, phảng phất cảm hứng sử thi. Ông xâu chuỗi những khoảng khắc điển hình của lịch sử, và cho nhân vật hiện hình hoạt động trong không gian ấy. Các chuyện của ông không bị lạc hậu theo thời gian vì giá trị hiện thực của nó.
N.P.H có một giọng văn đẹp, khúc chiết, mạch lạc, thanh thoát, khi trữ tình, khi “u mua” hóm hỉnh. Chuyện dữ dội mà viết “cứ như không”. Đọc chạy trang, hấp dẫn.
Nhiều truyện ngắn của N.P.H mang phong vị hoài cổ, truyền cảm (Sân tranh, Ông Đồ, Người hát ca trù, Tình đùa…).
Tản văn, truyện mi ni, câu chữ trau chuốt, tinh xảo, nhiều bài như những áng văn đẹp. Đặc biệt có truyện “Cô gái đầm sen”với chủ đề thông điệp về cái đẹp, có tiếng vang sâu rộng.
Thơ N.P.H xoay quanh chủ đề tình yêu và chủ đề triết lý cuộc sống. Những vần thơ thường giản dị, sáng sủa, có tứ: “Tôi có bao nhiêu yêu thương/Mà không có địa chỉ để gửi/ Biết gửi đại dương cho ai/ Ai đủ chỗ để đựng biển cả/ Biết gửi bầu trời cho ai/ Để đựng bầu trời ai đủ chỗ…/
Ông có bài thơ “Hoa Sữa” được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt: “Tuổi mười lăm em lớn từng ngày/ Một sớm mai em bỗng thành thiếu nữ/ Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ /Hoa Sữa thơm ngây ngất bên hồ /Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu/ Mùi Hoa Sữa trong áo em và mái tóc/ Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt / Vậy mà tan trong sương gió mong manh/ Tại vầng trăng tại em hay tại anh,/ Tại sang đông không còn Hoa Sữa/ Tại siêu hình, tại gì không biết nữa/ Tại con bướm vàng có cánh nó bay/ Đau khổ nhiều nhưng éo le thay/ Không phải thời Rômêô và Juyliét/ Nên chẳng có đứa nào dám chết/ Đành lòng thôi mỗi đứa một phương/ Chỉ mùa thu tròn vẹn yêu thương/ Hương Hoa Sữa cứ trở về mỗi độ/ Hương của mối tình đầu nhắc nh/ Có hai người xưa đã yêu nhau…