Người đàn bà
bước lên thang, thản nhiên vào nhà. Cơn đau làm bà hộc lên, nằm vật ngay bên
bếp. Ông Thổ gọi vợ con khênh “bà kháng chiến đau đẻ” ra rừng. Họ đã xúm vào
cầm chân. Bà Đức Hạnh đang mê man, vụt tỉnh lại, rút phắt khẩu súng dắt bên cạp
sườn:
- Ai động
đến, tôi bắn. Tôi vì nước vì dân. Ai hại tôi kẻ đó là phản động, là tay sai của
Pháp.
Chỉ kịp nói
thế, bà lại giẫy lên. Cùng lúc vỡ đầu ối, bà thét một tiếng xé ruột, chân tay
co giật làm cướp cò khẩu súng lục. Không trúng ai, nhưng đủ làm cả nhà ông Thổ
kinh hoàng bỏ chạy.
Sau khi cái
thai ra rồi, bà nằm lịm. Nhưng tay vẫn lăm lăm súng lục. Bà nằm rất lâu. Đứa
con cựa quậy bùng nhùng dưới chân, kệ nó. Bà phải nằm hồi sức, để lát nữa có
thể bò dậy đi tìm một con dao cắt rốn cho con.
Bếp lửa bập
bùng xua bóng tối ngoài cửa nhà sàn. Đến nửa đêm thì bà đã có thể ngồi dậy
được, ôm con trong tay, khẩu súng vẫn phải để dưới tã lót. Củi hết, bà lại nhóm.
Không dám ngủ, sợ bị chủ nhà lừa khênh ném ra rừng. Bà nặn đôi vú chưa có sữa
của mình đặt vào đôi môi nhỏ xíu sơ sinh, cho nó bớt khóc.
Đói và mệt,
lấy rong riềng trong chảo ra ăn. Bà ở lại ngôi nhà sàn ấy ba ngày, với súng kè
kè bên người. Ngày thứ tư, thấy đã đủ sức, ôm con băng ràng vượt suối về cơ
quan...
... Dục từ
vườn trở lại phòng khách. Anh xem đồng hồ. Đã muộn. Có thể cha anh đi đâu sắp
về. Gặp ông cụ chẳng thích thú gì. Anh đặt xấp tiền lên bàn ghi mấy chữ thăm
hỏi rồi ra về...
Chiếc Vetpa Spring
máy nổ giòn ngoài ngõ.
*
* *
Năm ấy số tết
“Hồn Đất Việt” – báo của chú ruột Nô en – đã lấy ảnh Huy và Nô en dạo chơi bên
Hồ Gươm làm tờ bìa.
Ảnh đẹp quá,
nên báo khá chạy.
Nô en yêu Huy
ngay sau khi ở Vũ gia trang về Hà Nội. Thu Hằng phát hiện ra điều đó nhờ đọc
trộm những bài thơ “bâng khuâng” trong sổ tay Nô en. Cô “điện gấp” về cho anh
trai. Huy rời Trại Dẻ, tức tốc về biệt thử Cổ phong, để có “cự ly” gần, gì chứ
yêu nhau thì nhanh lắm. Nhất là lại có “liên lạc viên” Thu Hằng. Tình yêu Huy
và Nô en là một “cuộc tình” vào loại “tiên tiến” thời bấy giờ ở Hà Nội, chịu
“ảnh hưởng của tư tưởng tự do châu Âu”, so với các cuộc tình lễ giáo của giới
quý tộc phong kiến còn khá thinh hành. Ba me Nô en thuộc loại “đả cựu nghinh
tân” nên tuyệt đối tôn trọng “tự do tình yêu” của con gái với trưởng nam quan
Án sát tỉnh Bắc. Ông Tham nhà băng đón người yêu của con gái đến nhà như đón
thượng khách, cư sử bình đằng thân tình. Ông cùng đọc thơ tình Véc len, Muýtxê
với chàng rể tương lai, rồi cùng mặc đồ thể thao lướt xuồng máy du lịch chơi Hồ
Tây.
Ông vui vẻ,
cười luôn miệng, luôn ôn lại kỷ niệm ngày ông yêu tiểu thư Nhã Phong - mẹ Nô en
bây giờ. Ông kể cho “đôi bạn trẻ” (Huy và Nô en0 về chuyện tiểu thư Nhã phong,
con quan Thượng Thư “cấm cung” khuê các, mà phải lòng ông chết mê chết mệt, cứ
nhất định một lời chỉ lấy ông, nếu không sẽ tự vẫn. Mặc dù lúc đó ông chỉ là
“bạch diện thư sinh” hàn vi.
Ông tỏ ý căm
giận tột độ cái lễ giáo Khổng Mạnh đã “bỏ tù” con người. Tình yêu là cái đẹp đẽ
nhất của tuổi trẻ thì bị cấm kỵ, đè nén. Con chim đực và con chim mái say mê
tiếng hót và bộ lông đẹp của nhau, tìm đến nhau, để xây tổ ấm. Còn con người
thì bị “nam nữ thụ thụ bất thân” không được tự tìm đến người mình thích. Chỉ
được nhắm mắt ưng thuận người được mai mối, gả bán “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”. Rõ ràng con người tự đặt ra “luật lệ” để hạ thấp mình, không cho mình
bằng con vật trong lĩnh vực tự do yêu đương. Bọn phong kiến có ngu không? Phải giải phóng con người khỏi các “nhà ngục
Bátxti lễ giáo “ (lời ông Tham). Phải nã những phát đại bác long trời lở đất
vào đó. Cá nhân con người phải được tự do tuyệt đối. Tự do tình yêu muôn năm!
Ông Tham cho
rằng để bù lại việc mất quyền tự do tình yêu, bọn phong kiến đã có quyền “lắm
thê nhiều thiếp” hợp pháp mà bọn tư bản không có. Tư bản chỉ được phép một vợ
chính thức (còn dấu diếm thì tuỳ - nhưng không hợp pháp). Cũng là một chứ bù
trừ. Ông cười gì gì chửi cha bọn phong kiến đạo đức giả, nhưng cũng “láu” ra
phết...
Huy đem người
yêu đến trình diện cha tại dinh án sát, có sự “hộ vệ” của Thu Hằng. Mấy cha con
chiều chiều đi chiếc xe ngựa cổ mui gỗ mun trạm trổ cửa kính phủ rèm lụa xanh,
dạo chơi quanh cá tỉnh lỵ quạnh vắng; hoặc dọc bờ sông Cầu ngắm những cánh buồm
xa.
Cứ thoáng
thấy bóng chiếc xe đâu là dân hai bên đường lại chỉ trỏ xì xào. Danh tiếng
chính trực của cụ Án, ai cũng đã một lần nghe, nhiều khi được giai thoại hoá.
Huy và Nô en
chưa thể tính chuyện hôn nhân, vì Nô en còn phải đi học. Ông Tham bắt con gái
phải học đến cùng, phải giỏi giang như con trai.
Huy thì thấy
“chưa có hứng” để đi làm công chức. Nghỉ ngơi cái đã, sau bao năm vùi đầu học
hành thi cử. Tuy vật “rong chơi” mãi cũng chán, Cậu Cử vụt nẩy ra ý định thích
hoạt động xã hội.
Chiếc ô tô
hòm màu đen quan Án mua lại của quan Tổng đốc, từ lâu xếp xó, vì cụ Án ghét đi
ô tô, giờ được Huy đem ra dùng.
... Một buổi
sáng, Huy, Thu Hằng, Nô en đậu xe trước cửa hàng Thịnh Điền - một làng nhỏ cách
Vũ gia trang dăm chục ki lô mếch... Làng cổ, nhiều di tích, nhiều cô gái đẹp.
Trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, con gái má trắng như phấn, chân tay nuột nà.
Nhưng Huy chọn Thịnh Điền, cái chính là nơi đó nhiều thợ nền, mộc giỏi.
Được báo
trước, lý trưởng cùng Hội đồng hương chính áo dài khăn xếp, trịnh trọng đón cậu
Cử, tiểu thư con quan Án và nữ sĩ phóng viên nhật trình “Hồn Đất Việt”.
Trong nhà Hội
đồng, Huy trải bản thiết kế kiểu “Nhà Văn minh” áp dụng cho dân quê mà chính
anh nghĩ ra.
- Thưa ông lý
và các chức sắc trong xã. Thưa các bác phó mộc phó nề - Huy trịnh trọng thuyết
trình – Dân quê Việt Nam hiện nay nói chung phải ở trong những ngôi nhà ẩm thấp
tối tăm mất vệ sinh. Hàng ngàn đời nay cứ như thế, tại sao?
Ba gian giữa,
hai buồng, không cửa sổ tối om. Bố mẹ vợ chồng con cái ở chung đụng không có
phòng riêng, vô cùng bất tiện. Sao khổ thế, ngu dại thế. Quanh nhà thì cống rãnh
nước tù động, nguyên nhân sinh ra muỗi. Chuồng lợn, chuồng gà, nơi vệ sinh ngay
đầu nhà, bốc mùi hôi thối.
Dân quê mình
ăn ở dị mọ khổ sở thế. Hãy xem người châu Âu, người thành phố ở thế nào. Nhà
cao ráo, đầy cửa sổ, vườn cây bao quanh, trong nhà chia nhiều phòng để mỗi
thành viên gia đình đều có không gian riêng biệt, tự do...
Huy say sưa
trình bày kiểu nhà văn minh của mình. Nền cao một mét, hiên trước và hiên sau
treo mành hoặc trồng thiên lý làm khu không khí đệm tạo hơi mát trong nhà. Xứ
mình, nóng nực là cực hình đối với con người. Khi nóng, đầu óc người ta không
minh mẫn được, lắm lúc phát điên lên và cứ ngu đần đi. Chỉ mát và lạnh, đầu óc
mới tỉnh táo, sảng khoái. Khi hậu quyết định quan trọng lắm. Quanh nhà dứt
khoát phải trồng cổ thụ. Nhãn, mít, sấu, ổi, bưởi, na v.v... Vừa cho quả ăn,
vừa cho “vì khí hậu” mát mẻ. Nhà năm gian phải có vách ngăn chia năm phòng.
Phòng khách, phòng vợ chồng bố, phòng vợ chồng con, phòng trẻ nhỏ, phòng để làm
kho v.v... Tuyệt đối không được ở chung như bầy đàn...
Để làm mẫu,
làm gương, tôi xin biếu làng ta một ngôi nhà như thế.
Huy trao cho
ông lý trưởng gói tiền, mỉm cười.
- Nhân dịp cô
Nô en, bạn tôi, qua thăm làng ta, đất văn vật, phong cảnh hữu tĩnh, đất mỹ tục
khả phong, tôi đề nghị lấy tên ngôi “Nhà Văn minh” tôi biếu tặng kia là: “Nhà
ánh sáng Nô en”.
- Thưa cậu Cử
và hai tiểu thư – Lão lý trưởng chắp tay – Nhà văn minh của cậu hay lắm. Tôi
thấy tất cả dân Nam mình đều nên làm như thế này. Kiểu nhà cổ dân quê thật đáng
ghét. Tôi thấy cậu thật là người có đầu óc khai sáng cho dân quê...
Tôi đề nghị
thế này: Tôi có một mảnh đất đẹp, sẵn có cây cổ thụ xung quanh rồi. Tôi sẽ làm
ngay ngôi “Nhà ánh sáng Nô en” ở đó, rồi cử bà Ba của tôi ra đấy trông nom. Tôi
sẽ khắc một cái bia nhỏ “Nhà ánh sáng Nô
en do cậu Cử Vũ Quang Huy tặng Thịnh Điền xã”. Tôi sẽ mướn phường chèo về diễn
nhân dịp khánh thành nhà và qua đó cổ động toàn dân làm nhà theo mẫu này. Thưa
có được không ạ...
- Tốt lắm...
Lão lý còm
cõi, má hóp mắt thâm quầng, người một tay xách nặng vì ba vợ thế mà thông minh
nhanh trí láu lỉnh. Tự dưng vớ được cục tiền làm nhà riêng cho vợ ba, mà nghe
hợp lý đâu ra đấy.
Tôi ấy, hắn
gọi đội “múa đèn” của làng đến giúp vui tại nhà khách của lão. Dưới ánh trăng
suông, cậu Cử và hai tiểu thư ngồi trên trường kỷ có bà ba béo tốt trẻ trung
của hắn lăng xăng hầu hạ trà nước. Mười hai cô gái trẻ đẹp chưa chồng, lụa là
yểu điệu thướt tha, hai tay bưng hai đĩa đèn nhịp nhàng múa hát chúc tụng. Ánh
đèn lấp loáng soi rõ những nụ cười xinh, môi ăn trầu cắn chỉ, răng đen nhánh.
Huy thấy lòng
vui lạ lùng...
*
* *
Chiếc thảm
hoa văn trống đồng chim hạc gợi tả tinh thần cội nguồn dân tộc, thật đẹp thật
văn hoá. Nó làm nhiệm vụ trang trí một cách cao sang. Nhưng nó còn làm nhiệm vụ
nguỵ trang: Đằng sau nó là tủ, két đầy vàng và tiền.
Đời thường có
sự phối hợp “hài hoà” hai yếu tố như vậy. Dục rút một xếp tiền rồi sập két. Một
xấp dày bằng xấp hôm trước đem cho “ông già”.
Tiền, hừ,
tiền... Tha hồ cho các ông văn sĩ nghèo kiết xác từ Âu sang Á, từ cổ đến kim,
ròng rã kiên trì viết hàng núi sách chửi rủa, khinh bỉ đồng tiền. Nhưng chả có
ai nghe theo, trừ thằng ngốc.
Chiếc Vetspa
spinh lại lao ra đường.
Huyền đợi anh
nơi gốc cây phượng vĩ cổ thụ bên hồ. Động tác nhẩy lên nệm sau xe của Huyền đã
thành thục lắm. Vòng tay ôm lấy eo. Chiếc xa bật xi nhan xanh đỏ nhấp nháy. Một
cặp dạo chơi đêm...
Cách đấy ít
hôm, cũng bên gốc phượng vĩ cổ thụ này có một em gái nhỏ ngồi bán thuốc lá lẻ.
Em gái mặt tròn xoe, mắt lấp lánh ánh sáng tuổi học trò. Dục dừng xe mua một
bao 555. Và ánh mắt em ánh lên tia kinh hoàng ngây thơ. Thường thì người ta chỉ
dám mua một điếu lẻ.
Dục khoái chí
về ánh mắt đó. Uy lực của đồng tiền. Một đứa trẻ tuổi học trò như tờ giấy trắng
kia... Phản ứng của nó trước đồng tiền.
- Em mới bán
thuốc lá ở đây? Không sợ à?
- Sợ gì?
- Bọn du
đãng, ma cô, gái điếm. Khu vực này là tụ điểm của chúng!
- Thế ạ. Em
không biết. Nhưng em có làm gì chúng đâu.
Dục nấn ná
nói chuyện cho vui.
- Đi bán thế
này, thời gian đâu học bài.
- Em trượt
đại học, ở nhà rồi - Mắt cô bé cụp xuống buồn bã.
- Một tối kiếm
được bao nhiêu?
- Đủ tiền mua
rau cho gia đình.
Ngày hôm say
Dục lại mua một bao ba số ở đó nữa. Rồi hôm sau nữa nữa, mỗi ngày một bao.
Em bé vụt
“giầu” nhanh. Dục thành ân nhân của em. Mắt em đã mag cái nhìn hàm ơn. Ôi, thảm
hại quá con người, chỉ tiền chênh lệch vài bao thuốc lá đã đổi được sự ân huệ.
Bây giờ Dục mới “đi sâu một bước nữa”.
- Em tên gì?
- Huyền.
- Tên hay
quá. Huyền này, anh thấy em bán lẻ chả được bao tiền. Em có muốn “bán buôn”
không. Anh có chỗ tiêu thụ. Em sẽ cung cấp cho anh mỗi ngày vài tút. Anh cũng
“buôn”.
Cô bé bán
thuốc bày mẹt còn mong gì hơn thế nữa. Hồi hộp sung sướng đến run người... Ta
bắt đầu kiếm ra tiền. Thế là ta đã kiếm ra tiền, không phải ăn bám vào bố mẹ
nữa. Ta sẽ đủ tiền để ăn mặc theo mốt cho ra dáng một thiếu nữ mới lớn.
Huyền thường
đem thuốc lá đến cho Dục vào các buổi sáng. Quan hệ “làm ăn” buôn bán bình
đẳng”. Dục trả tiền “công sức lao động” cho Huyền, chứ không phải Huyền nhận
của bố thí. Chính điều đó tạo nên quan hệ gắn bó thân tình.
Dục nhận ngày
vài tút ba số, nhờ người bán lại, lỗ tí chút. Đó chính là số tiền mà Huyền
“được lãi” mỗi ngày.
Dục không
nóng vội. Vài tuần sau, anh mới hỏi chuyện hoàn cảnh gia đình Huyền. Dục bật
cười sau khi nghe Huyền nói. Đúng như ước đoán của anh. Phải, như thế là đúng “quy
luật”. Không có gì khó hiểu. Tất yếu là phải như vậy.
Nhà Huyền lúc
đó đã nghèo túng đến mức báo động. Ông bố, người Nghệ Tĩnh, con nhà cốt cán hồi
“cải cách ruộng đất”, lớn ngồng ngỗng rồi, được cấp tốc cho đi học bổ túc công
nông. Khoản “học gạo” thì không ai bằng dân xứ sỏi đá khoai sắn gió lào. Cậu
học suốt ngày đêm, không thông minh, nhưng bài vở làm như cháo chảy.
Cậu ra làm
giáo viên cấp 2, xung phong lên miền núi, nhờ công đoàn tìm người yêu hộ, cũng
như tổ chức đám cưới đời sống mới giúp (chỉ có hát hò, uống nước chè xanh, hút
thuốc lá cuốn). Cậu tiến vùn vụt, được cử đi học Học viện Triết học, rồi được
giữ lại trường làm giảng viên. Đến nay bố Huyền đã dậy ở đấy hai mươi năm. Và
mẹ Huyền làm nhân viên in rônêô giáo trình. Gia đình ở trong khu tập thể, một
gian lá gồi, có vẩy tí giấy dầu làm bếp. Toàn bộ thu nhập chỉ là đồng lương với
mớ tem phiếu. Gia tài đáng kể nhất là kệ sách chính trị triết học, với những
chồng giáo trình lưu cữu. Mỗi quý một lần bố Huyền rời bục giảng xuống cơ sở xã
huyện để “lấy thực tế bổ sung cho bài giảng”. Và bài giảng của ông bao giờ cũng
có mục so sánh cuộc sống của nhân dân ta trước kia nghèo khổ, bây giờ no ấm thế
nào.
Mẹ Huyền ki
cóp nước gạo cọng rau nuôi được con lợn, ông bắt bán cho “công ty thực t\phẩm”
giá “nghĩa vụ” rẻ như bèo (bằng 1/10 giá ngoài thị trường). Họp cơ quan, ông
luôn đấu đá căng thẳng, tự phê bình mình trước về cái “tội” chung chung chưa
triệt để phấn đấu tu dưỡng, chưa rèn luyện tác phong giản dị cần kiệm (còn giản
dị cần kiệm đến múc nào nữa?), rồi quạt cho hết lượt từ thủ trưởng đến nhân
viên, mỗi người “lãnh” một khuyết nhược điểm từ quan hệ nam nữ đến mơ hồ về lập
trường giai cấp, từ thiếu tác phong quần chúng đến không có nhiệt huyết cách
mạng.
Công đoàn Học
viện muốn “cứu nguy” khi thấy một năm tiền mất giá tới sáu lần, bằng “kế hoạch
phụ” kiếm thêm tý chút thu nhập cho anh em: tổ chức từng nhóm giảng viên đến
tận cá cơ sở cơ quan dân chính đảng trong thành phố, dậy thêm ngoài giờ cho
những ai muốn có bằng trung cấp, cao cấp chính trị triết học. Cũng nhiều người
muồn học “hàm thụ” vì “luật lệ” muốn được đề bạt trưởng phòng giám đốc đều phải
có bằng này giống như muốn làm linh mục phải qua trưởng dòng.
Bố Huyền kiên
quyết phản đối. Ông nói: triết học không phải là thứ đi “bán rao” cho ai, lấy
tiền. Tiêu chuẩn phẩm chất tốt, diện “bồi dưỡng kế cận, sắp đề bạt” mới được cử
đến Học viện để học. Tại sao ta lại đi dạy thuê ngoài giờ giống như ca sĩ đi
hát thuê ở ngoài công viên.
Không rượu
không bia, không thuốc lá, uống nước lã đun sôi, đi dép cao su đen... và tối
tối tự học hàm thụ giáo trình đại học kinh tế.
Lương ông dần
chỉ còn đủ mua 13kg gạo theo sổ và một mớ rau muống.
Huyền không
chịu được “thảm cảnh” đó, cô đi bán thuốc là bày mẹt, ông vô cùng buồn phiền
cho rằng con “đua đòi”, “tha hoá” lo “hưởng thụ”. Bây giờ đủ gạo đủ rau ăn, còn
“kêu ca” nỗi gì; trước cách mạng, ông phần nhiều ăn khoai sắn chứ đâu được như
bây giờ...
Chiếc vetspa
đỗ lại trước một cửa hàng ăn sang trọng. Dục gọi món ăn, toàn những thứ người
nước khác người ta ăn hàng ngày: gà rán, cá rán, thịt bò hầm, bia hộp. Nhưng
bữa ăn bằng cả hai tháng lương bố Huyền, làm sao không gây ấn tượng mạnh cho cô
bé.
- Ăn đi em,
ăn cho vui...
Tiền bạc
không tạo được ra niềm vui. Đúng lắm. Các nhà rao giảng đạo đức xưa nay bao giờ
chả nói câu cửa miệng thế. Các nhà tỷ phú, có phải đời toàn niềm vui đâu. Lắm
khi còn khổ ra khổ nữa. Nhưng ngược lại (biện chứng của vấn đề, hai mặt mâu
thuẫn và thống nhất của vấn đề) tiền bạc có nhiều điều kiện để mua được niềm
vui...
- Ăn đi em
cho vui...
Ở tiệm ra,
hai người đi công viên, dạo chơi dưới những hàng cây đêm lộng lẫy chùm đèn màu.
Trông như một
đôi tình thân. Hệt thế. Nhưng thực ra có yêu đương gì đâu. Cô bé bằng nửa tuổi
ta. Tươi mát, nhưng cũng không phải là loại nhan sắc. Nhưng cái chính là giữa ta
và cô là một khoảng cách mênh mông. Vậy yếu tố nào đã tạo nên hình ảnh “một đôi
tình nhân” dạo chơi, nhìn từ phía ngoài vào.
Nếu “hiện
tượng đồng nhất với bản chất thì khoa học mất hết ý nghĩa”... Dục chợt bật
cười... Anh cầm lấy tay Huyền như cầm tay một đứa em gái. Nhỏ nhắn, xinh xắn,
mát lạnh. Rồi anh choàng tay ôm lấy eo. Tấm thâm thon gọn rắn chắc thiếu nữ run
nhẹ...
Tiền bạc mua
được cảm giác cho làn da, nhưng có mua đợc nhịp đập của trái tim?
*
* *
Dục vẫn nhớ
ngày hôm ấy, cách đây mấy chục năm, giây phút người phát thư bấm chuông biệt
thự Cổ Phong, trao cho anh giấy báo trúng tuyển đại học Bách Khoa.
- Chúc mừng
con – Ông Quang Huy hào hứng – Bà nên tổ chức một bữa tiệc nhân ngày vui này –
ông quanh sang vợ.
- Tiệc tùng!
Nên gọi là bữa ăn tươi có giản dị hơn không. – Bà Đức Hạnh uốn nắn.
Phiếu cán bộ
cao cấp, thịt thà có ngay, nhưng bà không nấu nướng cầu kỳ, chỉ luộc,
rang, xào như cơm hội nghị. Dù sao thì
cũng vui.
Buổi chiều,
sau buổi liên hoan ấy, Dục lấy xe đạp chạy dòng dòng trên đường phố, tận hưởng
cảm giác khoan khoái của kẻ vừa thành công.
Phố xá thời
chiến tạm bợ, xe bò đi lại nghênh ngang trên các quảng trường. Màu áo lính đầy
đường mang vẻ đẹp tráng sĩ lãng mạn. Xe nhà binh bụi bậm từ các mặt trận về.
“Hàng Đào không có lụa, hàng Bạc không có vàng”. Chỉ nhiều khẩu hiệu và áp
phích. Tiếng loa phóng thanh hùng tráng nhịp hành khúc. Vì vậy phố nghèo mà
không đìu hiu.
Phố xá thời
chiến tạm bợ, xe bò đi lại nghênh ngang trên các quảng trường. Màu áo lính đầy
đường mang vẻ đẹp tráng sĩ lãng mạn. Xe nhà binh bụi bậm từ các mặt trận về.
“Hàng Đào không có lụa, hàng Bạc không có vàng”. Chỉ nhiều khẩu hiệu và áp
phích. Tiếng loa phóng thanh hùng tráng nhịp hành khúc. Vì vậy phố nghèo mà
không đìu hiu.
Hoả lực phòng
không mạnh mẽ giữ cho nhịp sống bình yên có mức độ của thành phố chiến tranh.
Ly cà phê vẫn được nhấm nháp bên quán cạnh hầm trú ẩn. Màn nhung nhà hát vẫn
vén lên và các cô gái ca sĩ chỉ thích hoá trang áo lính khi ra sàn biểu diễn.
Nhà đổ, người chết, bom thét gào… Những cảm xúc về nó chai lỳ dần.
Dục đạp xe
nhởn nhơ. Thành phố cũng đang như cậu học sinh trung học. Nghèo một cách hồn
nhiên. Ít tri thức một cách kiêu căng. Khinh thường vật chất, hưởng thụ…
Dục qua cửa
công viên. Nắng chói, trời rất trong. Thời tiết này thuận lợi cho chiến tranh
không lực. Quả nhiên Dục đang đứng ngắm người thợ nề sửa cổng công viên thì có
còi báo động. Hình như rađa sơ hở để lọt mục tiêu từ xa, nên chưa chi đã thấy
máy bay Mỹ rẹt trên đầu, bom nổ liền liền.
Pháo phòng
không bấy giờ mới bổ lục bục.
Dục nhao vội
đến hố trú ẩn gần nhất. Nhưng đã có người rồi. Một cô bé đang kéo nắp hầm che
mảnh đạn cao xạ.
Hố trú cá
nhân, chỉ vừa một người. Bom nổ đâu rất gần. Máy bay siêu âm vừa hùng hổ vừa
liều chết lao trên bầu trời cái thành phố không thèm ăn ngon mặc đẹp, quyết
thành anh hùng thời đại và làm công tác tư tưởng giỏi đến mức động viên được cả
các cô gái liễu yếu đào tơ, vác súng trường cổ lỗ lên nóc tầng năm bắn máy bay
tối tân mà không biết sợ.
Không nấp
nhanh thì chết oan bây giờ. Dục hốt hoảng.
- Xuống đây
với em - Cô bé đành chia phần hố trú ẩn chật hẹp.
Hai người gần
như quắp ôm lấy nhau mới đủ chỗ. Mảnh đạn cao xạ rơi nghe veo véo. Nắp hầm đậy
kín, tối bưng vào ngộp thở muốn chết. Đất rung chuyển và như co vào ép chặt hai
người.
- Bom nổ gần
đây hay sao?
- Chúng đánh
cầu Long Biên.
Cô bé chừng
16 tuổi, mặt trái xoan rất xinh, đuôi mắt cong vút lên.
Dục thật ngẫu
nhiên mà được ôm trọn cái thân hình nhỏ bé rắn chắc tròn lẳn của cô bé vào
lòng. Áo cô sực mùi ổi chín. Mùi ổi át đi mùi rêu ẩm dưới hố. Mỗi loạt bom lại
làm người cô nẩy lên bần bật. Cô co lại như con tôm nép sát vào Dục tìm sự che
chở. Tiếng tim cô đập truyền vào da thịt Dục từng nhịp.
Mười lăm phút
sau, trận oanh kích ngừng. Hai người đội nắp hầm chui lên. Ông bán kem đội mũ
sắt rỉ đang bô bô:
- Chính mắt
tôi trông thấy chiếc F105 cổ ngỗng cháy bùng như đuốc, lao về phía Hồ Tây.
- Có thấy phi
công nhẩy dù?
Ông bán kem
ngâp ngừng rồi bịa bừa, liến láu:
- Có chứ…
Nhất định là nó phải nhẩy dù rồi. Dù đỏ…
Thành phố sặc
mùi khét. Khói bốc lên cuồn cuộn. Xe cứu hoả rú còi chạy qua. Sau vài phút im
ắng, xe đạp ở đâu lại đổi ra như lá tre, hối hả vội vã.
Cô bé và Dục
phủi bụi trên áo. Nhờ cớ “tình huống đặc biệt” của chiến tranh mà họ đã quen
nhau.
- Tóc anh đầy
đất kìa - cô bé cười.
Mặt cô giờ đã
trắng hông, không tái mét như lúc nãy nữa.
Ông bán kem
vẫn hùng hồn:
- Tên lửa của
ta phóng veo véo ghê quá. Một quả tên lửa trị giá số tiền nuôi một gia đình
trung nông ăn 50 năm đấy nhé (đúng là ngôn ngữ của người chỉ lo chạy gạo). Một
quả tên lửa bắn được hai máy bay cơ. Bắn tan cái này, được rađa hướng dẫn nó
lại vòng tìm cái bên cạnh. Thế mới đáng giá tiền chứ. Ăn 50 năm mới hết cơ mà.
- Thế máy bay
Mỹ trị giá bao nhiêu?
- Cũng phải
trị giá ăn 70 năm mới hết chứ ít à.
- Thế thì
hàng vạn gia đình trung nông Việt Nam xin sẵn sàng nhịn đói 70 năm để có hạng
vạn máy bay, bay đầy trời chọi nhau với nó…
- Nhịn đói
một triệu năm cũng chả có - Dục bật cười.
- Cô cậu mua
kem đi. Kem ngon lắm - ông già vội quay về “nhiệm vụ thiết thực” của mình.
Dục và cô bé
cùng dắt xe đạp đi.
- Em về đâu?
- Đi chơi
dòng dòng.
- Anh cũng
vậy.
- Sao em
không sơ tán?
- Về nông
thôn khổ lắm, chịu sao nổi. Nóng như điên không có quạt máy. Rửa mặt nước ao
bèo kinh ơi là kinh. Ra đường cứ phải chào hỏi người làng, không thì họ chửi
cho, bảo khinh người.
- Em học lớp
máy?
- Lớp chín.
- Trường em
không sơ tán?
- Sơ tán một
nửa. Những ai ở lại dồn vào mấy lớp. Chiến tranh, học hành thất thường. Còn
anh?
- Anh chờ vào
đại học.
- Đại học
chắc phải sơ tán.
- Cũng có lớp
đi, lớp ở lại. Hà Nội bây giờ đâu chả thế. Các cơ quan cũng vậy. Có bộ phận đi,
có bộ phận ở lại. Gia đình anh cũng vậy, người đi người ở lại, hoặc đi đi về về
như con thoi. Máy bay đánh rát: đi, yên yên một tí lại nhoài về.
- Em thì chết
thôi không đi đâu cả. Anh bảo Mỹ nó có thả bom thiêu huỷ toàn bộ thành phố Hà
Nội không?
- Có thể thế,
nếu là cuộc chiến tranh thôn tính lãnh thổ. Nhưng đây chỉ là chiến tranh phá
hoại hậu phương của ta. Nhằm vào mục tiêu giao thông và quân sự.
Hai người
vòng qua mấy đại lộ rồi tới Bờ Hồ.
- Em tên gì
em.
- Trà Mi.
- Tên hay
quá. Nhà em phố nào?
- Hàng Bài.
Hai người
dừng lại một quầy giải khát bên Bờ Hồ. Dưới chiếc dù sặc sỡ cô mậu dịch viên
đang ngồi đọc truyện sau những chồng táo tây xứ lạnh mơn mởn.
- Hàng viện
trợ chống Mỹ kia kìa, ngon quá, nếu không thì nước mình tiền đâu mà nhập thứ
hoa quả xa xỉ này.
Dục mua mấy
trái ra ghế đá ngồi ăn cùng Trà Mi. Táo thơm ngọt lạ lùng. Lại giá rẻ. Thế mà
ít người biết mua mà ăn. Thật dại, có thể là dại, nhưng cũng có thể vì nghèo.
Người ta chỉ đủ lương để đong gạo sổ, thực phẩm tem phiếu và nhu yếu phẩm thì
quả táo tây ngon rẻ đến đâu không có cũng “chửa chết ai”. Người nghèo thường
“thực bất tri kỳ vị” lấy đầy bụng làm trọng.
- Một quả táo
tây bảo quản cầu kỳ, chuyên chở từ vĩ độ lạnh, qua bom đạn đến đây giá chỉ bằng
một cái bánh mì. Mà bánh mì thì chen chúc nhau mua - Dục buồn cười.
- Mậu dịch
đang bán ca cao. Giá hai hào một hộp nửa ki lô, tương đương một cái bán rán -
Trà Mi cũng phá lên cười - Hàng viện trợ mà, vậy mà ế sưng ế sỉa. Không ai biết
nó là cái gì. Có béo bổ không? Thảm hại thật. Bố em bảo từ tiếp quản thủ đô
1954 đến giờ mới thấy có ca cao. Nhiều người mua pha như pha trà, đúng là đáng
“vứt” đi thật! Chỉ những người Hà Nội gốc bố mẹ em mới biết giá trị của nó. Nhà
em mua hàng yến để pha đường, sữa uống dần. Ông bảo rẻ như bèo. Chủ nghĩa xã
hội thế này thì sướng thật. Tư sản Hà Nội xưa đâu đã dám mua hàng yến ca cao
một lúc để uống dần. Vì nó đắt lắm.
- Chủ nhân
thực sự của Hà Nội bây giờ là các bác Nghệ Tĩnh và các bác nhà quê đi kháng
chiến, từ chiến khu về, nên mới để dành táo tây và ca cao cho chúng mình…
Má Trà Mi
căng mọng như trái táo. Điệu cười, tiếng nói, cử chỉ hồn nhiên - sự hồn nhiên
của kẻ có sắc đẹp “uy quyền” giời cho.
“Một cái gì
bâng khuâng hơn tình bạn”, Dục và Trà Mi còn có đôi cuộc đi xem phim, dạo hồ
Tây… để đến… “một cái gì đang tới của tình yêu”.
Dục mời Trà
Mi đến biệt thực Cổ Phong. Hôm ấy ông Quang Huy và bà Đức Hạnh lên nơi sơ tán
của cơ quan. Họ chơi ngoài vườn, Trà Mi vít cành nhót. Nhót chín mọng, chua nẩy
răng.
- Em chọn đĩa
nhạc nào?
- Môda.
Hai người nằm
dài trên thảm lá vàng. Tiếng nhạc du dương chẩy tràn như nắng thu. Không có báo
động nên không phải hầm trú ẩn? Hầm ở cuối vườn, bê tông chắc chắn - tiêu chuẩn
của hai ông bà cán bộ cao cấp.
Trà Mi kể
chuyện gia đình mình. Cô nói trước 1954 nhà cô có tiệm tạp hoá lớn ở Hàng Bài.
Cha cô học nghề “thư ký nhà buôn” và giỏi kinh doanh. Tiệm hàng phát đạt. Nhà
cô là biệt thự hai tầng sáu buồng lớn, không kể chỗ ở của người làm công, con
sen. Sau “tiếp quản thủ đô” bố cô sợ quá, vội xin vào “công tư hợp doanh” sống
theo đời mới, được giữ chân kế toán của cơ quan. Ông cúc cung tận tuỵ “làm việc
quên mình” hơn cả cán bộ ở chiến khu về. Sổ sách giấy tờ tiền nong đâu ra đấy.
Nghiệp vụ “thư kts nhà buôn” mà! Ông mời các thủ trưởng, thủ hó, trưởng phòng
(dân chiến khu về) đến ở nhà mình. Toàn gia ông thu gọn vào một gian trên gác.
Thật là may
quá, vì nhờ đó mà từ một anh dân “trong thành” , không ai đi kháng chiến, suýt
thành “tư sản thương nghiệp”, mà thành một cán bộ nhà nước như ai. Lý lịch ghi:
ngày tham gia cách mạng… (tức là ngày hiến cửa hàng cho nhà nước, đi làm kế
toán). Lý lịch vợ ông cũng được ghi: ngày tham gia cách mạng… (tức là ngày làm
mậu dịch viên bán hàng).”
Mất hết của
cải nhưng lại “chắc chân” vì từ nay toàn gia có hộ khẩu Hà Nội, có sổ lương
thực 13kg/tháng và các tem phiếu thực phẩm. Còn Trà Mi thì được ghi lý lịch:
thành phần gia đình cán bộ công nhân viên chức (người trong biên chế nhà nước)…
Dục chăm chú
nghe chuyện gia đình Trà Mi thỉnh thoảng lại bật cười…
Đĩa nhạc Môda
đã hết rồi mà câu chuyện mãi không ngưng. Mấy ai đã có một buổi vui chơi với
tình bạnt trong trẻo thế này…
Một tháng sau
buổi ấy Dục đang chuẩn bị tựu trường đại học, thì bà Đức Hạnh đưa ra đề nghị:
nên xung phong đi bộ đội.
Chủ nhật ấy
có cuộc mít tinh động viên tinh thần ra trận cứu nước của thanh niên thủ đô.
Ông Quang Huy đại diện nhân sĩ yêu nước ngồi ghế đoàn chủ tịch. Bà Đức Hạnh đem
Dục theo. Nhà hát lớn chăng đèn kết hoa. Mọi người mặc áo màu lá cây - màu thời
chiến.
Tiếng vỗ tay
như sấm dậy khi vị yếu nhân chính phủ (chỗ quen biết của gia đình ông Huy) lên
phát biểu. Trong con mắt mọi người, ông như bậc sáng thế. Chính ông xưa là
chàng thanh niên từng đến biệt thự Cổ Phong nương náu, đêm đêm viết những bài
xã luận cách mạng bốc lửa. Bà Đức Hạnh thật sự xúc động. Giờ giải lao bà đến
bắt tay ông:
- Tôi có một
cháu trai đang chờ vào đại học, nhưng tôi sẽ cho cháu nhập ngũ, ra mặt trận làm
gương đi đầu.
- Chị nên
hành động. Con em cán bộ cao cấp không gương mẫu thì chúng ta còn động viên được
ai - Vị yếu nhân khuyến khích.
Ở nhà hát lớn
về, bà Đức Hạnh đặt vấn đề ra với chồng. Ông Huy không dám nói gì. Và thế là có
quyết định cuối cùng vào một giờ đêm hôm đó, sau bản tin chiến sự đọc trên đài
phát thanh.
Dục được hai
ba tờ báo đăng ảnh, viết bài. Đặc biệt ảnh bà Đức Hạnh cầm tay con dặn dò trước
phút lên đường…
*
* *
Trời cao
nguyên hong hong như sắp có bão. Ông Quang Huy mặc áo măng tô, chống ba toong
đi lang thang trên đường phố Ban mê.
Chủ nhật,
người đi lễ nhà thờ khá đông. Nhà thờ cổ Ban mê kiến trúc mô phỏng “nhà dài như
một tiếng chiêng” của người Êđê. Nét mặt các tín đồ lặng lẽ đăm chiêu, thấp
thoáng trong bóng lá vườn ẩm ướt.
Ông Huy đứng
ở hàng dưới. Các tín đồ đang tìm niềm tin trong thánh đường. Còn ông đến đây
tìm gì? Tìm niềm tin, tìm thánh đường của mình chăng?
Tiếng chuông
tan lễ làm ông Huy sực tỉnh. Trời bên ngoài vẫn hong hong như sắp có bão. Nhưng
ông không về khách sạn. Ông nhìn theo bóng một người nữ tu đang chầm chậm đạp
xe hướng đường về tu viện “Hầu cận chúa Hài đồng”.
- Cho tôi ra
vườn cà phê ngoại ô ngắm cảnh – ông gọi một xích lô.
- Thưa vâng.
Nhưng trời sắp mưa ạ.
- Cứ đi.
Ngược chiều,
nườm nượp các cô gái Êđê da ngăm tóc xoăn, đeo gùi vào thị xã.
- Anh có biết
“Tu viện chúa Hài Đồng”?
- Thưa ông
có... Đó là một thế giới riêng biệt lập với cõi đời này. Một lâu đài cổ kính
toàn những cô nữ tu đẹp như tiên rất ít khi ra ngoài.
- Họ có đến
lao động ở các lô cà phê của tu viện?
- Dạ có...
- Tôi muốn
xem vườn cà phê của họ thế nào?
- Thưa... Ông
cũng là người của nhà thờ? Cháu trông có nét đó...
- Nét gì?
- Phúc hậu,
nhân từ.
- Anh trông
tôi vậy sao? – Ông Huy bật cười.
Người phu
xích lô kính cẩn khác thường, nhận tiền công rồi quay đi, để lại mình ông Huy
giữa đồi cà phê mênh mông.
Không có cô
nữ tu nào đang chăm sóc cây cối. Lá cà phê ẩm sương sớm. Đất dưới chân mát
lạnh, tiếng tim ẩn hiện ở đâu.
Một ông già
với rừng cây mênh mông vắng lặng... Hừ, cảnh cũng lạ. Ông già đợi chờ mơ hồ một
cái gì, khi bất động như hoá đá, lúc bồn chồn...
... Cách đây
ba mươi năm, trên những ngọn đồi của đồn điền Trại Dẻ (toàn cây dẻ, còn đây
toàn cà phê) rợp bóng lá (bóng là thì như nhau) ta cũng đợi – đúng ra không
phải là đợi, mà là dạo chơi cùng Nô en. Ta và Nô en cùng mặc quần soóc trắng,
áo thun trắng tung tăng đuổi theo những con gà gô, nhưng chẳng bao giờ bắt
được. Nghe tiếng no kêu bên tai, trông thấy nó hẳn hoi, xô đến thì nó đã lủi
mất rồi.
Đồi dẻ đầy
bướm hút mật dẻ. Có thứ bướm cánh như có sự bố cục trang trí của họa sĩ. Nắng
lên, bướm bay rối mắt. Nô en cũng trở thành một con bướm trắng bay lượn khắp
đồi. Nàng muốn bắt những con bướm đẹp nhất, nhưng cũng như bắt gà gô, chẳng bao
giờ được. Nàng phát khóc. Nàng có thú sưu tập bướm. Bướm trắng, bướm vàng, bướm
đen, bướm hồng... mỗi con bướm là một bài thơ nhỏ. Giấc mơ nàng chở trên những
cánh bướm lung linh.
Nô en tuyệt
vọng, mệt nhoài, mồ hôi dán áo như giấy bóng, nằm lăn trên nệm cỏ. Chính lúc
ấy, những con bướm lại trêu nàng, sà đến sát mặc, rung rinh đôi cánh phấn đẹp
mê hồn của mình. Có con còn đậu xuống đôi ngực vồng cao của nàng. Nếu nàng nằm
im chút nữa, cả đàn bướm sẽ đậu xuống đầy người vì nó tưởng nàng là đoá hoa
trắng khổng lồ.
Không bắt
được bướm thật, Nô en chuyển sang chụp ảnh bướm. Lầm này thì nàng thành công.
Những con bướm đủ màu chỉ có thể tặng bóng hình của nó cho nàng, chứ đời nào
chịu đẻ đôi cánh phấn bay lên trời được kia bị ép khô chết cứng trong cuốn sưu
tập. Cánh nó còn phải để bay đùa với nắng và hoa. Những cuốn sưu tập dù có ít
giá trị vì thiếu nó, cũng mặc xác.
Những con
bướm chấp nhận cho nàng in ảnh hình nó lên báo. Mai kia, khi mưa bão làm phai
phấn màu, nó rơi xuống như chiếc lá rụng, nhưng có còn “sống mãi” với thời gian
là nhờ ở những tấm ảnh.
Nô en say mê
đàn bướm. Máy ảnh bấm tanh tách. Chúng nô rỡn lại cùng nàng. Nếu như lúc đầu
nàng định “giết” chúng thì giờ nàng đang làm cái việc cho nó “sống mãi”.
Trên báo “Hồn
Đất Việt” dạo ấy in khá nhiều ảnh bướm, ảnh phong cảnh đồi dẻ, ảnh Nô en và
Quang Huy lúc lội qua dòng suối trong vắt, lúc hái hoa mẫu đơn (chụp tự động).
Đẹp nhất là bức bốn cánh tay giơ lên nâng niu như đón mặt trời đang lên từ phía
đồi xa và bức hai người đùa dưới ngọn nước khe lấp lánh. Đôi vú trần trắng nõn
của Nô en áp vào vách đá gan gà xù xì nâu rám (tạo sự tương phản) và tia nướ
nhỏ xíu như dòng ánh sáng xói vào khe vú nàng...
... Ông già
Huy bước lững thững. Mặt trời nhô cao, hơi ẩm đất đỏ, sương lá bốc ngùn ngụt
như khói. Mấy con chồn chạy roàn roạt trên lá khô, níu cành, ăn những quả cà
phê chín. Mắt chúng liếc loang láng cảnh giác ông già.
Hạt cà phê
hoá ra trông bề ngoài rất giống hạt dẻ. Rừng dẻ cũng nhiều chồn sóc đuôi dài
leo trèo nhằn hạt.
Những con
chồn của đồi dẻ ba mươi năm xưa giờ vào đây nhằn hạt cà phê chăng? Chính là
chúng đấy. Chúng theo bước chân ta. Ba mươi năm. Chúng vẫn trẻ trung nhanh nhẹn
son sả đẹp đẽ, còn ta thì từ chàng trai hào hoa phong nhã thành một lão già lụ
khụ.
Ông Huy cúi
xuống nhặt những hạt cà phê lỏn nhỏn trong bãi phân chồn hoai mục. Đây chính là
loại cà phê đặc biệt thượng hảo hạng. Chồn tất nhiên chỉ chọn những quả cà phê
to mọng ngon nhất mới chịu ăn. Chúng chỉ tiêu hoá được lớp vỏ. Hạt được “xử lý
hoá học” trong dạ dày chồn (giống như búp trà được xử lý trong dạ dày ngựa để
thành trảm mã trà) rồi tống ra ngoài thành thứ hạt cà phê tuyệt hảo)
Chắc các quốc
vương Ả rập, các tỷ phú chọn uống thứ “cà phê cứt chồn” này. Thứ ngon nhất quý
nhất từng có lúc lẫn lộn trong thứ bẩn thỉu nhất. Thứ thơm nhất có lúc lẫn
trong thứ thối nhất.
Từ “Địa vị”
nằm trong bãi cứt, thành thứ tinh chất cao sang đựng trong chén vàng chén ngọc
của bậc quốc vương.
Ông Huy mỉm cười
một mình với những ý nghĩ lẩn mẩn.
Có quá trình
như thế, rồi cũng sẽ có quá trình ngược lại. Nghĩa là từ trong chén vàng chén
ngọc, qua dạ dày quốc vương (chắc không khác dạ dày dân thường) chất quý giá ấy
lại trở về nằm trong bãi phân quốc vương (chắc cũng có thuộc tính phân dân
thương).
Vậy là lại
giống như cũ. Hệt như cũ. Bước thăng trầm tuần hoàn. Như vậy thì không có gì là
ghê gớm khi đang nằm trong chén vàng chén ngọc. Cũng như không có gì là tủi
nhục lắm khi đang nằm trong đống phân lần thứ nhất cũng như lần thứ hai. Đất sẽ
thấm, sẽ hoà tan tất cả qua màng lọc diệu kỳ của nó, qua hoá phép thần tiên của
nó, giống như chuyện lọ lem, quả bầu ngô biến thành cỗ xe ngựa, mấy con chuột
thành các tuấn mã, chất bã kia lại thành cây xanh, rừng rực kiêu hãnh, đâm hoa
kết trái cà phê thơm lừng.
Và đời cứ
thế, vòng tuần hoàn.
*
* *
... Ông Huy
ngồi dựa xuống một gốc cây. Những con bướm cao nguyên dập dờn bay đến rủ rê
dòng “trữ tình ngoại đề”.
Những con
bướm này sao giống hệt những con bướm đồi dẻ ngày xưa.
Sao bướm có
cánh đẹp thế mà con người lại không có cánh nhỉ. Thật là thiệt thòi cho giống
người.
Nô en, hình
như em có cánh thì phải. Chỉ riêng em có, mình em có, trong khi cả loài người
không có.
Đôi cánh
trắng trong thanh khiết của em đã nhấc em bay bổng khỏi mặt đất lầm bụi.
Em có cánh,
sao bây giờ không bay qua hàng rào tu viện để đến đây với anh. Anh là Quang Huy
người yêu ngày trước của em. Ông già Quang Huy cô đơn không nơi nương tựa, đang
đợi chờ em.
Em bị giam
cầm trong các bức tường đá ấy đã ba mươi năm rồi. Đến án chung thân còn có thể
giảm sau ba mươi năm tù nữa là...
Khi mặt trời
cao nguyên vàng úa chìm xuống phía rừng xa, ông Huy mới lững thững trở về. Bất
ngờ lại gặp anh phu xích lô ban sáng.
- Mời ông lên
xe...
- Cám ơn.
- Ông thấy
rừng cà phê tu viện có đẹp không?
- Đẹp lắm...
À này, anh có bao giờ chạy xe chở khách vào tu viện chưa?
- Tu viện cấm
ngặt bóng đàn ông lai vãng, trừ trường hợp đặc biệt. Các nữ tu trông thấy đàn
ông vội quay mặt đi, kinh tởm như nhìn thấy quỷ sa tăng.
- Tôi có người
nhà vào tu trong đó đã ba mươi năm giờ muốn gặp lại, sao liên hệ được.
- Ông vào gặp
thẳng bà Nhất giám đốc.
- Nhưng tôi
lại không muốn cho bà ấy biết.
- Thế thì
chịu. Liên hệ với tình báo viên của mình đang nằm trong hang ngũ đối phương,
còn dễ hơn gặp nữ tu trong đấy ạ.
- Nhưng cứ
thử xem sao. Anh giúp ta nhé. Anh đạp xe chở một số đồ thờ đến, ví dụ giá cắm
nến, đèn chùm, nói là người nhà của một nữ tu tên là Nô ên, cúng vào tu viện,
xin được chuyển tận tay bà Nô en, qua đó chuyển thư hẹn giúp ta.
- Được ạ,
cháu sẵn sàng. Cháu cũng muốn phiêu lưu một chuyến vào tu viện ngắm những cô
gái đồng trinh trong suốt như pha lê ấy xem sao.
- Ta tin anh.
Không hiểu sao thoáng gặp mà ta đã tin anh tử tế. Nói chung bây giờ ta rất muốn
tin người. Ta muốn tự chứng minh rằng: đời có nhiều người tốt. Ta đã đến tuổi,
đến lúc chẳng cần chẳng muốn dấu diếm ai cái gì. Ta cần anh làm trợ thủ. Ta từ
Hà Nội vào đây. Người tên Nô en trong tu viện chínhlà người yêu của ta ba mươi
năm trước. Nàng giận ta, giận đời, đi tu. Bây giờ ta mới phát hiện ra nàng ở
đây. Và ta muốn gặp. Thế thôi!
- Trời ơi
tuyệt quá. Cháu thật may mắn được ông tin, giao phó cho công việc. Được giúp
ông chuyện này thú quá! Thật vinh hạnh cho cháu.
- Anh cầm số
tiền này vào cửa hàng hồ cổ mua giá cắm nến và đèn chùm nhé. Ta ở khách sạn du
lịch. Sáng mai anh ghé qua đó lấy thư ta viết, rồi hành động.
- Thưa
vâng...
*
* *
Chiếc xe hòm
màu đen lồm cồm trên đoạn đường về làng Thịnh Điền.
Cậu cử Vũ
Quang Huy cầm lái. Ghế sau là Nô en và Thu Hằng (Thu Hằng vẫn cứ phải lẽo đẽo
đi hộ vệ. Cô Hằng, Nô en mới được phép của ông Tham cho đi chơi). Ghế trên là
ông huyện Hữu Ngọc rám má, có họ hàng xa với mẹ Nô en. Ông giữ chức đã chục
năm, chuyển chỗ nọ chỗ kia, nhưng chẳng thăng chẳng giáng. Ông Tham vẫn khinh
bỉ gọi là đồ quan liêu vô dụng. Nước Nam mình còn chết vì những ông quan phụ
mẫu ngu dốt đại loại như thế.
- Việc gì đến
các cháu mà bận tâm vào những việc viển vông này lại lôi cuốn cả cậu phải tham
gia – Ông huyện nhăn mặt chịu cú xốc nẩy của chiếc ô tô cà là tèng, tiếp tục
than vãn - Việc ấy của nhà nước, của các quan. Nhà nước, các quan không lo, các
cháu hơi đâu mà lo hộ.
- Cậu chiều
chúng cháu đi.
- Nhưng dân
quê nó có chịu nghe các cháu không. Bọn bố cu mẹ đĩ ngu dốt ấy thì chỉ ăn no
vác nặng, chứ biết cái gì.
- Họ cũng là
người cả đấy chứ cậu. Chẳng qua vì nghèo khổ quá mà sinh ra thế. Họ dốt thì
mình khai trí cho họ.
- Khai trí!
Bọn dân cày thì bổ đầu nó ra nhét chữ vào cũng chả được, huống hồ... Trời sinh
ra cái dân Nam mình ngu tối, nhiều tật xấu, không có đầu óc kỹ thuật, lại chỉ
thích đánh nhau...
- Nếu người
Nam mình được học, nếu giàu có thì cũng chẳng kém gì người tây. Phải khai trí
cho họ để họ sống về sinh khoẻ mạnh, chăm chỉ lao động, đủ cơm ăn áo mặc, tương
thân tương ái nhân quần.
- Cháu mà bảo
được họ thì nhà nước sẽ bổ nhiệm cháu làm tổng đốc, khâm sai. Gớm... Một bọn
đầu bò, ma đói ma khát...
- No nên bụi,
đói ra ma, thế thôi. Họ bị quan trên ức hiếp, bóc lột, đói khổ, họ phải phẫn
uất.
Nắng tháng
bẩy chói chang oi bức, cái oi của sự tích tụ gió trước các trận giông bão mùa
lũ.
Chiếc xe như
con rùa bò giữa đồng lúa xanh nước úng trắng xoá từng khoảnh.
- Năm nay mưa
nhiều, lúa má ngập thối khắp nơi. Chưa chi mà ăn mày đã đầy đường. Đấy, cái số
nước mình nó khổ thế đấy, vậy mà các cháu bảo khai trí thì khai trí làm sao
được.
- Nhưng làm
quan như cậu thì cũng phải làm gì cho dân chứ, chả lẽ chỉ biết than thở.
- Thì cậu
biết làm gì.
- Làm như
cháu đề xuất đấy.
Ông Huyện lại
thở dài, mệt mỏi chán chường cái “sứ mệnh” mà những đứa cháu nhờ ông.
Chiếc xe hòm
về đến đầu làng Thịnh Điền. Các ông hào lý áo dài đen, che ô, đứng đón lố nhố.
Quang Huy ớn những màn nghi lễ vái lạy quan lớn này, nhưng không có nó thì ông
Huyện hạch sách các thày lý liền. Phải làm cái việc “vớ vẩn” của Quang Huy nhờ,
ông Huyện cũng chẳng thích thú gì. Sợ cụ Án, nể ông Tham mà không thể từ chối.
Ông càng chán ngắt, vì đáng lẽ bình thường ra ông sẽ được đón rước đến đình
làng, cỗ yến linh đình, cầm chống chầu tom chát vui thú với mấy cô đầu xinh đẹp
mà tên lý tưởng nào cũng phải biết chuẩn bị khi ông đi “hiểu dụ”.
Đằng này thì
chay tịnh!
Ông Huyện thở
dài theo đoàn thầy lý thày thơ đến tham quan “Nhà ánh sáng Nô en” mà cậu Cử
tặng làng, đã hoàn thành.
Nhà toàn tre,
rạ, ngăn nhiều phòng, hiên bao quanh có cửa sổ vườn cây... Có thế chứ có gì
đâu. Thế mà cậu Cử lại bắt ông đến đây ngủ một đêm trên chiếc giường tre, ăn
cơm bình dân canh cua hoa lý, dạo chơi trong vườn... để dân quê họ trông vào,
thấy cái “Nhà ánh sáng Nô en” này là quan trọng, đã dược quan lui tới.
Thì cũng phải
chiều cái thằng trẻ ranh học mót lối “văn minh Âu tây” này vậy!
Ông Huyện
đóng xong màn kịch thăm “Nhà ánh sáng Nô en” rồi, hôm say chuyển qua màn kịch
khác vẫn do Quang Huy đạo diễn.
Bài “hiểu dụ”
do Quang Huy soạnt hảo trước, bắt ông học thuộc lòng, đại để có mấy nội dung:
- Một, khuyên
dân làng làm nhà theo mẫu nhà “ánh sáng Nô en”.
- Hai, lập
bội khuyến học quốc ngũ, góp tiền xây trường nuôi thầy mua báo chí về để ngoài
đình cho thanh nien chiều chiều ra đọc.
- Ba, nên đắp
đường giao thông nối liền với đường cái quan đi lại thuận tiện. Không đường,
làng sẽ thành nơi khỉ ho cò gáy, ánh sáng văn minh không đến đây được.
- Bốn, nên mở
các cửa hàng, cửa hiệu buôn bán phồn vinh.
- Năm, lập
một khu văn hoá có sân bóng, nơi vui chơi, hồ bơi cho thanh niên.
Vân vân và
vân vân.
Trong khi ông
Huyện hiểu dụ, Nô en chụp ảnh tanh tách làm các thầy Lý thầy thơ cứ ngay mặt mở
mắt trừng trừng, sợ chớp mắt vào ảnh sẽ thành mù.
Nô en biếu
các quan viên mỗi thày một tờ nhật trình “Hồn Đất Việt”. Các thầy phần lớn mù
chữ, đón tờ báo xoay ngang xoay dọc xem ảnh, chỉ chăm chăm về dán lên vách.
Quang Huy
tiếp lời ông Huyện. Cậu Cử biết rõ Thịnh Điền gồm hai làng Đoài và Đông; luôn
xích mích nhau. Sự thể đã đến mưc đòi chia bài vị Thành hoàng để xây đình
riêng. Cậu khuyên nên giành số tiền định xây đình mới đem xây trường học. Riêng
cậu Cử lần này lại xin đóng góp một khoản đủ để trả lương thầy trong một năm...
Nô en thì xin
hứa sẽ gửi biếu báo “Hồn Đất Việt”, phu trạm đem về tận xã đều đều. Thu Hằng
thì hứa sẽ đem thuốc chủng đậu màu về chủng cho tất cả trẻ con, để từ nay Thịnh
Điền không còn một người nào mặt rỗ.
- Nhưng thưa
cô, vợ cháu đã rỗ rồi, thì chủng thuốc có lành các nốt rỗ không ạ - Một chú
trương tuần mặt non choẹt rụt rè hỏi.
Quang Huy bật
cười:
- Đấy, kết
quả của việc không được học là tai hại thế đấy. Tôi cam đoan vợ chú xinh đẹp
phải không nào? Chỉ vì mặt rỗ mà thành xấu gái. Lẽ ra chỉ cần một tú thuốc bé
bằng giọt sương chủng vào bắp tay là vợ chú đương nhiên thuộc loại xinh gái.
Ôi, một tý thuốc bằng giọt sương mà quyết định cả đời người. Đấy, do ở nhà ẩm
thấp tối tăm mất vệ sinh, vi trùng đậu mùa xâm nhập gây hậu quả tày trời. Nếu
vợ chú ở nhà “ánh sáng Nô en” từ bé, nắng gió chan hoà, vi trùng bị nắng giết
chết hết, lại thêm tiêm chủng, thì đâu nên chuyện.
Đình làng dài
rộng nghênh ngang, rước xách thờ cúng rùm beng, thành hoàng có cứu được vọ chú
khỏi mặt rỗ đâu.
Chú trương
tuần thần mặt, ngẩn ngơ tiếc của giời. Đúng là đáng lẽ vợ chú xinh gái nhất
làng thật. Trắng trẻo, bụ bẫm, tươi giòn...
- Đừng tiếc
nữa – chú quản xã ngồi cạnh hích sườn nói thầm - nếu nó không rỗ thì nó lại
không lấy mày. Nó đẹp, chẳng bao giờ đến phần mày. Mày phải cảm ơn những nốt rỗ
trên mặt ấy, vì nhờ nó mà mày còn được hưởng cái thân thể trắng trẻo bụ bẫm
kia. Ôi mặt mũi, cần quái gì...
Chú trương
tuần sực tỉnh...
Các quan viên
hàng xã nghe “hiểu dụ” tai nọ sang tai kia, mắt nhìn xuống nhà giải vũ xem vợ
chồng thằng mõ chia phần xôi chuối đã đến đâu. Kiến đang bò bụng cả rồi. Oán
cậu Cử quá. Đáng lẽ hôm nay nhân dịp quan về, bổ xuất đinh lấy tiền mổ lợn cho
các quan viên ăn; nhưng cậu Cử ra lệnh cấm. Chỉ được ăn chút oản chuối đỗ đói
ban trưa thôi...
- Còn việc
đắp đường giao thông... thưa quan – Lão lý trưởng thấy đó là việc “dùi động đến
đục, đục chạm đến gỗ”, cuối cùng lão phải làm, nên phải kính bẩm – Phu lấy ở
đâu ạ. Bao nhiêu xuất phu một năm đều đem đi đắp đê đại hà cả rồi. Con biết bổ
vào đầu ai đi đắp đường bây giờ ạ. Hay là quan miễn trừ cho làng một số xuất
phu đắp đê để dùng vào việc đắp đường.
Ông Huyện Hữu
Ngọc mỉm cười:
- Phu lấy ở
đâu thì thầy hỏi cậu Cử của thày chứ hỏi gì ta. Xuất phu đắp đê là việc của
Huyện bổ cho xã thày theo đầu người. Đó là việc quan. Còn đắp đường giao thông
để “khai trí văn minh” là việc riêng của xã Thịnh Điền nhà thày. Các thày tự
lo.
- Dạ con làm
sao mà cắt cử chúng được nếu không có lệnh quan. Bọn dân đen này cái gì cũng
nhất nhất phải có lệnh quan chúng mới nghe, chúng sợ gông cùm mà...
- Không bảo
được nhau thì đừng “khai trí văn minh” nữa – Ông Huyện quay sang Quang Huy –
Đấy cậu Cử, tôi nói có sai đâu. Với bọn dân đen này thì mình có dậy dỗ mở mắt
ra cho chúng cũng bằng thừa.
Quang Huy
thật sự lúng túng.
Đúng lúc ấy
có người lính lệ phi ngựa đến cửa đình trình thư hoả tốc:
- Bẩm quan
đêm qua mưa nguồn, nước sông đang lên to lắm ạ. Mời quan về huyện đường gấp.
Ông Huyện Hữu
Ngọc đổi sắc mặt lo lắng. Năm nay mưa nhiều nước sông đã mấy đợt đe doạ đê đại
hà. Nhờ trời, nước đã rút, tưởng thoát, ai ngờ bây giờ lại lên to.
Không dám trù
trừ, ông Huyện quay sang Quang Huy, Nô en và Thu Hằng:
- Các cháu ở
đây, ta phải về.
- Để cháu lấy
ô tô đưa cậu.
- Không, ta
đi ngựa của thằng lệ kia ta cũng sợ cái ô tô nhảy xóc lồm cồm của cháu lắm. Các
cháu cứ ở đây làm việc theo chương trình của mình.
Đoạn, quay
sang gọi lý trưởng Thịnh Điền:
- Nội trong
ngày nay thầy phải bắt hai trăm xuất phu trai tráng khoẻ mạnh, tập trung lên đê
Đại hà, nghe chưa.
Lý trưởng gãi
đầu với Quang Huy.
- Đấy thưa
cậu, còn đâu người đắp đường “khai trí văn minh” nữa... Cái khó cứ bó cái
không.
... Quang
Huy, Nô en, Thu Hằng ở lại nhà “ánh sáng Nô en” dăm ngày. Mái dạ mới tươi vàng
còn thơm mùi nhựa héo. Vách nứa đan vàng óng. Giường nen tre ken mây dầy xít.
Gió đồng lồng lộng thổi qua vườn cây đem hơi mát của lá sương. Đêm trăng vàng
to bằng chiếc mâm thay treo lơ lửng đầu nhà. Sáng, chim chìa vôi, bách thanh
ríu rít ngoài cửa sổ gióng trúc. Trận mưa bóng mây qua, giọt gianh lanh tanh
như ai gẩy đàn tranh. Hương lá sực nức khi nắng hừng lên, những tầng lá mục bốc
hơi ngùn ngụt. Tiếng côn trùng đêm khuy ri rỉ. Tiếng gà gáy trưa xao xác.
Ba người tận
hưởng không khí đồng quê thơ mộng. Cô vợ ba gà lùn của lão lý trưởng khéo nói
khéo chiều, ngày hai bữa cơm hầu hạ toàn món “quê” cua nướng ốc lúi, cà pháo,
canh mồng tơi, cá rô don rán giòn, chả lươn bọc lá lốt, xôi đồ trộn trứng
kiến... Đồ uống thì nước vói nóng ủ ấm đất.
Mấy cô thôn
nữ xinh đẹp áo cộc lụa, váy lĩnh xắn cao lộ những bắp chân nõn nà, đến nhà “ánh
sáng Nô en” quay tơ đan áo, hát trống quan, múa đèn, cho Nô en chụp ảnh, cho
cậu Cử và tiểu thư Thu Hằng ngắm xem.
Tuần nghỉ
thật vui. Chỉ hiềm một nỗi tiếng trống hộ đê từ bờ sông vọng đến thình lình sốt
ruột. Đêm khuya, tiếng trống phá đám cảm giác thanh bình. Càng mấy ngày cuối,
tiếng trống càng bồn chồn không yên. Cả làng nháo nhác lo lắng. Chắc nước lên
to lắm, đê nguy cấp lắm. Chớp nguồn rèn rĩ thâu đêm.
Dân phu đi hộ
hê vác tre, rơm lũ lượt. Lão lý trưởng mỗi lần ở đê về hốc hác bơ phờ, cố nở nụ
cười:
- Cậu Cử và
hai tiểu thư yên tâm. Đê đang được kè. Không việc gì đâu.
Lần nào hắn
cũng lặp lại như thế. Cho đến một hôm hắn chạy cuống queo, mắt cắt không còn
hạt máu;
- Cậu Cử ơi
nguy lắm. Đê sắp vỡ đến nơi rồi. Tôi về chạy lụt cho vợ con đây. Phu hộ đê chạy
trốn hết rồi. Quan huyện đánh lý trưởng các làng nát nhừ roi song vì không bắt
đủ phu. Có lão lý trưởng còn bị chôn ngập người xuống đất, chỉ hở từ cổ lên vì
phu làng ấy trốn hết. Tôi cũng bị mấy hèo. Không trốn nhanh thì tôi cũng chết.
Đê núng lắm rồi, giời cũng không cứu được nữa. Mặc mẹ nó, tôi phải về lo cho vợ
con đã. Làng này rồi sẽ thành vực, đúng dòng nước xối qua. Không chạy nhanh thì
chết không còn một mống.
Tôi sẽ giả
triệu đồng từ chức lý trưởng…
Lão chạy như
ma đuổi. Nô en và Thu Hằng mặt cắt không còn hột máu, cuống queo.
- Chạy nhanh
về Hà Nội, không thì chết ngụp.
- Lên đê chụp
cảnh đê vỡ. Dịp may hiếm có. Ảnh đó đăng Nhật trình giá trị lắm!
- Giời ơi,
không phải lúc đùa.
Quang Huy nổ
máy chiếc “xe hòm”. Khục khặc mãi nó vẫn ỳ ra. Có nhẽ nó không nổ nữa chắc? Cái
này là cái chết. Ba người sẽ phải chạy bộ về Hà Nội chắc.
Huy kiên trì
quay ma ni ven. Tay dầu mỡ quết nhọ nhem trên mặt. Nô en và Thu Hằng chạy quanh
cuống queo, suýt phát khóc. Chiếc ô tô như con quái vật câm lỳ không chịu há
mồm khạc ra một tiếng.
- Gọi mọi
người đẩy giúp - Thu Hằng sáng kiến.
Mấy cô gái
quay tơ múa đền vội đến, giãng chân chèo đùn xe. Con trâu ỳ, chỉ cần quất một
roi là lồng lên. Còn chiếc ô tô bốn bánh trơn tru mà đẩy ật ngực chỉ lăn từ từ.
Toát mồ hôi, hàng tiếng nó mới “rùng mình bừng tỉnh” phun khói đen xì.
- Tăng ga!
Nhanh nhanh!
Chiếc ô tô
hốt hoảng chạy trốn chẳng khác gì điệu bộ của lão lý trưởng ban nãy. Chẳng một
lần ngoái lại nhìn ngôi nhà “ánh sáng Nô en”.
Có lẽ từ nay
nó cạch…
Cô trực tầng
khách sạn Du lịch đem vào bó hoa cẩm chướng rực rỡ mà ông già Huy đặt mua.
Đồng hồ chỉ
10giờ. Ông già bồn chồn lại gương nắn ca vát. Một bà nữ tu dòng tu khổ hạnh
khắc nghiệt với áo dài đen quết gót vào chơi phòng riêng với một người đàn ông
- thật là sự kiện lạ mắt động trời! Nhưng biết làm thế nào. Ta biết hẹn gặp Nô
en ở đâu bây giờ. Hay dắt nhau ra ngồi quán. Lại càng không được. Hay đi dòng
dòng dạo phố ngồi ghế đá công viên? Bà tu dạo công viên với “tình nhân”! Mặt
đất này chưa bao giờ có cảnh đó.
Tại sao đời
lại đẩy ta và nàng vào hoàn cảnh đến nối đứng ngồi bên nhau thành một nghịch
cảnh không thể chấp nhận được thế này.
Để trao một
lá thư phải nhân cớ đến cúng đồ thờ. Ta là người thưởng mà sao phải dùng các
biện hpáp của điệp viên khi móc nối.
Nhưng liệu Nô
en nhận thư rồi có đến với ta không?
Nàng có còn
là cô bé Nô en ngày xưa hay đã biến thành bà Cai nghiệt ngã sắt đá, chai cứng
tâm hồn. Hay nàng đã thành người máy chỉ biết ép xác hãm mình đọc kinh xưng
tội, lấy roi tự đánh bật máu lưng mình trước bàn thờ Chúa để chứng minh cho sự
chân tu khổ hạnh của mình.
Nếu vậy thì
sao nàng còn dám đến gặp ta?
Ông già Huy
bồn chồn đứng ngồi không yên. Đồng hồ chỉ 11 giờ. Có tiếng có cửa. Ông đứng bật
dậy như lò xo.
- Thưa ông,
không thành công ạ - Người phu xích lô tốt bụng xuất hiện, lắc đầu ngao ngán.
- Tại sao?
- Cháu chờ đồ
thờ đến gần cổng tu viện thì bị hai ba người mặc thường phục chặn lại. Họ là
công an, phòng thuế phục kích. Tu viện là trọng điểm theo dõi vì đó là nơi kín
đấo để biến thành đầu mối liên lạc của hoạt động tình báo nấp sau tôn giáo. Còn
phòng thuế thì rình bắt cà phê hạt của tu viện tuồn bán ra chợ đen với giá cao,
không bán già “thu mua” cho Công ty nông sản nhà nước.
Họ khám xét
bảo muốn cúng tiến đồ thờ phải có đơn trình bày và được xác nhận của chính
quyền cho phép.
Ông Quang Huy
ngơ ngác. Xin xỏ cái gì thì mới cần chính quyền cho phép chứ. Vô lý. Có của đem
cho làm việc từ thiện tín ngưỡng không được sao?
- Cháu không
biết. Cháu phải đem về tất cả.
- Thôi được!
Ta sẽ xin phép chính quyền thị xã. Ngày mai anh lại đến đây giúp ta.
Ngày hôm sau,
ông già Huy thay bình hoa mới và lại chờ. Giấy tờ đã hợp lệ. Mọi chuyện chắc êm
xuôi.
Sao con người
muốn gần nhau, gặp nhau lại trắc trở khó khăn thế nhỉ. Vô lý quá đỗi. Nhưng
nghĩ sao cho cùng con người bị ngăn cách nhau trên mặt đất này là một định
mệnh, không tránh khỏi. Ngày nay trên mặt đất này đầy rẫy cảnh chồng ở xứ lạnh,
vợ ở xứ nóng, con ở tây bán cầu, mẹ ở đông bán cầu, anh ở lục địa này, em ở lục
địa kia.
Cách nhau cả
đại dương đã là chuyện thường tình. Tại sao một phần máu thịt từ mẹ cha tách ra
tồn tại thành một cơ thể khác, mà cơ thể ấy lại phải vĩnh viễn cách xa nguồn
cội máu thịt của mình. Biên giới chế độ, sự hằn thù, và mọi sự độc ác ngu xuẩn,
mặt trái của giống người đã cắt chia những khối máu thịt cùng cội nguồn.
Tại sao ta và
Nô en thương yêu nhau là như th, trái tim ta và nàng cùng đồng điệu mà phải
cách xa nhau ba mươi năm như một giấc mơ.
Chỉ một việc
muốn gặp nhau lại khó khăn biết chừng nào.
Ông Huy vẫn
bị ám ảnh bởi bộ mặt hỏng việc của anh phu xích lô hôm qua… Khi có tiếng gõ
cửa, ông già chồm dậy lo lắng.
- Xong rồi -
Anh phu reo.
- Nhưng Nô en
đâu.
- Bà chưa thể
đến ngay bây giờ.
- Tại sao?
- Cháu bị dẫn
đến bà Nhất giám đốc. Cháu phản đối kịch liệt, đòi trao tận tay bà Nô en. Cuối
cùng họ phải mời bà Nô en đến. Ôi bà đẹp như Đức Mẹ ấy, hiền từ dịu dàng quá.
Còn bà Nhất thì như con quạ già, mụ phù thuỷ. Cháu trao đồ thờ trong sự giám
sát của bà Nhất. Còn lá thư riêng? Làm thế nào? Đấy mới là mục đích. Cuối cùng
cháu phải biến báo “Thưa bà giám đốc, cho tôi được nói chuyện riêng với gì Nô
en vài phút, thông báo tình hình gia đình ai còn ai mất sau ba mươi năm xa cách
dì”. Bấy giờ con quạ già kia mới chịu rời phòng.
Cháu bảo bà
Nô en:
- Bà đọc thư
đi. Ba tiếng nữa tôi đợi bà ở cổng tu viện chờ bà về khách sạn Du lịch.
Bà Nô en tái
mặt run lên bần bật, lắc đầu lia lịa. Vừa lúc ấy mụ quạ già bước vào. Thế là
hết. Cháu đành phải rút lui.
Ông Quang Huy
gieo mình xuống sa lông tuyệt vọng.
- Thưa ông
cháu tin rằng khi đã nhận thư nhất định bà Nô en sẽ tìm cách nào đó gặp ông,
không trước thì sau. Thật là thiếu sót nếu ông không chuẩn bị cho bà một bộ đồ
cải trang thành dân thường, để đi lại thoải mái trên đường phố.
- Ôi, điều
đơn giản ấy mà ta không nghĩ ra. Anh thật thông minh hơn ta gấp bội.
- Cháu sẽ tìm
cách chuyển bộ đồ… Cháu đã biết đường đi ngóc ngách trong tu viện. Cháu thích
làm việc này. Hãy tin ở cháu…
Ông già Huy
bắt chặt tay anh…
*
* *
Thành phố xao
xác trong cơn gió bấc đầu mùa. Nắng vàng se se mong manh trên các tàng cây hai
bờ đại lộ. Gió vi vút thổi những chiếc lá khô rang trên hè phố. Màu áo len đỏ
chói giữa nắng lá vàng.
Tiếng gió
nghe buồn, và mặc dù thời gian trong trong như ngân lại không trôi được, đêm
vẫn đến lúc nào không biết.
Đèn đường
vàng úa. Trinh bước ra phố, vô định. Tấm áo lông thật ấm, dễ chịu, nhưng lòng
trống trải buồn tênh. Những chiếc lá khô gió thổi xào xạc quẩn theo chân cô.
Hình như đêm nay thứ bẩy, đường dập dìu bóng đèn xe máy xanh đỏ. Người ta chen
nhau ở các phố trung tâm.
Chỉ có Trinh
đồng hành với những chiếc lá khô trên vỉa hè vắng vẻ.
Ngã tư. Tiếng
nhạc náo nức và ánh đèn màu rực rỡ của một câu lạc bộ vũ hội. Bóng những cặp
trai gái dìu nhau trong nhịp Tăngô bên cửa sổ. Trinh lắng nghe. Tiếng nhạc réo
rắt khơi nguồn một cái gì sôi trào trong lòng. Với thói quen của người quyết
đoán, ít do dự Trinh bước lại ghi sê mua vé. Vũ trường sực nức mùi nước hoa và
mùi da thịt thiếu nữ dậy thì. Ánh đèn màu quay quay mờ hiện như ảo ảnh trôi
theo nhịp Bốttông.
Người ta lặng
lẽ chăm chú chuyển điệu nhẩy. Những cặp chơi choai mới lớn, thích “thẩm mỹ phá
phách” trang phục các “kiểu quần áo cực đoan” nhẩy như những đôi chim non
chuyền cành, mắt ngắm nhau say mê cũng hệt mắt chim.
Trinh ngồi
xuống ghế chờ. Có lẽ mình lạc lõng ở đây chăng? Một ý nghĩ buồn tủi chợt đến.
Nhưng rồi, chợt bật cười, cô vừa thấy mấy đôi già như đang ngụp lặn trong hồ
ước. Tóc hoa râm, tròng mắt bệch bạc, điệu nhẩy bay bướm lịch sự “ga lăng” một
cách cổ lỗ, niềm say mê giả vờ để che dấu sự mệt mỏi quá sức.
Họ còn hám hố
gì mà đến đây nữa nhỉ. Có khi lại còn đến đều đặn hơn cả bọn thanh niên. Trinh
biết có những bà goá chồng, sùng sục đi tìm tình bạn. Trước đầu tắt mặt tối
việc gia đình: giờ bỏ hết, chỉ son phấn chải chuốt nhong nhóng đến tối thứ 5,
thứ 7 để đi vũ hội; để làm quen, để “tình bạn” với những ông tầm “trẻ đã qua,
già đang tới”. Những ông mới “hưu trí” (có khi chưa đến tuổi) kiểm điểm lại đời
chẳng làm được cái trò gì, công tác thì chỉ đến chức phó phòng, tài sản thì chỉ
đủ ngày hai bữa, bây giờ tiếc đời, cố vươn lên như ngọn đèn trước lúc tắt, “ăn
chơi” một chút cho biết mùi đời.
Một ông bạn
nhẩy “đúng cỡ” như thế đến cúi chào rất thấp, lịch sự học mót thế kỷ mười tám,
mời nhẩy, làm Trinh tự ái.
Cô lắc đầu.
Một nỗi giận dữ khó tả. Nhưng hình như cả vũ trường vắng bặt lớp trung niên
tuổi Trinh. Hình như cái lứa tuổi “trời đày” này còn đang mệt rũ vì “Tám giờ
vàng ngọc” ở cơ quan xưởng máy, mệt rũ vì họp hành đấu đá… hơi sức đâu đến đây
nhẩy nhót.
Trinh vẫn
ngồi im. Điệu nhạc “Triệu Bông Hồng” say đắm vui tươi. Trinh thật sự thèm có
một bạn nhẩy. Chân tay cô dậm dật. Cô đứng dậy lảng vảng quanh sàn, với chủ
đích rất “dơ” là tìm một người khả dĩ “xứng đôi vừa lứa”.
Có một bóng
đầm đậm, dáng trung niên, đang đứng trong đám người uống bia. Trinh vô thức,
rồi chợt cay đắng nhận thấy mình xán đến gần người đó. Người trung niên quay
lại. Ối, Trinh suýt ngã bổ chửng: Dục! Và bên anh là cô bé rụt rè như con chim
non.
- Cô Trinh
đấy à - Giọng Dục chào chiếu lệ.
Trinh lại
thấy tủi thân. Sao gia đình đến nỗi này. Anh ruột gặp em gái, chỉ có giọng xã
giao vậy sao?
- Huyền, em
đem bia mời chị Trinh đi.
Huyền cung
kính bưng ly.
- Cám ơn -
Trinh níu vai Dục lại, khi anh đang định quay đi - Anh, sao ba ở Ban Mê thuột
mãi không về?
- Ba đến
viếng mộ mẹ ở đó.
- Biết rồi,
nhưng xong thì phải về chứ.
- Anh không
biết.
- Ba không
thư từ?
- Không, còn
em, ba cũng không “liên lạc” sao?
- Tuổi già cố
chấp, kệ ba. Sẽ đến lúc ba hiểu ra và hết giận em cũng như hết giận anh.
- Em lo ở Ban
mê khí hậu không tốt. Bác sĩ Tuần bảo ba áp huyết cao.
Trên bục, dàn
nhạc bắt đầu chơi vào điệu đitscô. Những cặp choai choai bắt đầu tung hoành như
con choi choi.
Dục và Huyền
hoà vào dòng người đó…
*
* *
… Cửa phòng
khép kín, tiếng gió rền rĩ ngoài cửa sổ.
Trinh bật
công tắc, chùm đèn loé rực rỡ. Bộ chao đèn pha lê kiểu cung đình tầng tầng lớp
lớp những giọt thuỷ tinh. Trông như những giọt lệ ánh sáng.
Trinh chậm
chạp thay đồ, mặc kimônô. Đệm chăn rực rỡ trên giường càng gợi vẻ cô đơn.
Ti vi, cát
xét, tiểu thuyết trên bàn, mọi phương tiện giải trí khuây khoả chẳng còn ý
nghĩa. Không gì át được nỗi buồn bâng khuâng do cơn rét đầu mùa đem đến tặng
cho người đàn bà độc thân.
Ly trà nóng
trên bàn bốc khói. Một đĩa bích quy. Vẻ ấm cúng giả tạo.
Trinh đi đi
lại lại ngắm mình trong gương. Hiện lên người đàn bà xinh đẹp, sắc sảo, quyết
đoán. Đoi môi mỏng, đôi mắt to đen rừng rực nồng nàn, dữ dội.
Thật đáng
thương cho cái nghị lực kia lúc này. Trinh đặt tay lên công tắc, chỉ một giây
là cô tắt. Nhưng chính lúc ấy có tiếng gõ cửa:
- Ai đấy?
- Anh… Kháng
đây mà.
- Có việc gì
thế anh - Câu hỏi lạnh lùng cứng cỏi.
- Anh đến
thăm em.
- Nhưng khuya
rồi.
- Trinh… Ngỏ
cửa ra em. Ngoài này rét lắm. Cho anh vào sưởi ấm.
- Em nghĩ
rằng anh nên đi đi thì hơn.
- Nhưng anh
chỉ vào gặp em một lát. Anh không chịu nổi cơn rét đầu mùa.
Trinh đặt tay
lên chốt cửa. Xạch! Tiếng mở khoá nhưng chốt cửa chưa kéo hết, người bên ngoài
vội đẩy ùa vào.
Kháng đứng
sững dưới chùm đèn pha lê. Một thân hình rắn chắc. Đôi mắt mày thép nhạt. Gương
mặt đôn hậu và điềm tĩnh.
Ly trà trên
bàn đã nguội tanh. Kháng ngồi xuống xa lông.
- Em không
rót nước mời anh?
vvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvv- Không!
- Ôi, trắng
trợn thế sao? Nhưng anh đang Khát, đang Lạnh cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
- Chính anh
đã chọn cho anh tình trạng ấy - Mắt Trinh trân trân như nhìn vào chỗ không
người.
- Hãy tự tạo
cho mình những khoảnh khắc ấm cúng. Có đủ lửa để nhóm, tội gì chịu lạnh lẽo,
em!
- Nhưng sau
đó lửa tắt thì lại càng lạnh hơn.
- Em nhìn
những bông hoa đào, những con bướm trên chiếc kimônô của em. Kìa! Đẹp quá.
Trông như cảnh mùa xuân. Tay Kháng lân la chạm vào giải đai kimônô.
Trinh vẫn bất
động.
- Trông em
rực rỡ quá - Tay Kháng lẩy bẩy mở nút thắt. Đúng chỗ nút là hình thêu con chim
hoàng anh vị vặn vẹo chằng chói.
- Ôi tội
nghiệp hoàng anh quá, để anh cởi cho nó thoả chí tung cánh bay. Anh bắt đền em
đấy. Sao chằng chói khổ sở chim hoàng anh thế này.
Hai cánh sáo
của kimônô dã được banh rộng, lộ ra khuôn ngực nõn nà và cặp đùi tròn trặn.
- Đóng lại
- Tiếng Trinh sắc lạnh.
- Anh van em.
Hãy thương anh…
- Thắt lại
như cũ.
- Anh khổ
quá, anh chết mất.vvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvv
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét