Tháng giêng rộng dài câu Quan Họ

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

Chiếc Tôyôta trắng bập bềnh lướt trên đương đất đỏ. Ông Quang Huy ngồi băng sau nhìn vào cái gáy béo núc bị ùn lên vì cổ áo lễ hồ cứng của ông linh mục.
- Cao nguyên của chúng tôi giầu đẹp lắm – Đôi kính gọng vàng của vị linh mục quay lại.
- Vâng... Giàu đẹp.
- Những đồi cà phê kia là của Nhà xứ Ban Mê chúng tôi. Cứ bẩy tấn cà phê có thể đổi cho Nhật lấy một chiếc Tôyôta.
- Hương vị cà phê Ban Mê tuyệt vời.
- Đứng đầu thế giới, bên cạnh cà phê Bradin.
Chiếc Tôyôta bắt đầu đi vào con đường đá trắng. Tu viện “hầu cận chúa Hài Đồng” nằm giữa một vùng đồi bằng phẳng, trông xa như một khu rừng nhỏ. Các loài cây đại thụ được chăm sóc như trong vườn Bách Thảo. Vẹt, trĩ, xập xoè bay lượn; khỉ vượn leo trèo.
Các cổng lớn cổng nhó mái Gô tích, đắp tượng chúa Jêsu chịu nạn, tượng Đức Mẹ bế chúa Hài Đồng.
Chiếc Tôyôta lăn vào cửa tiền sảnh. Sân lớn lát đá tảng, lô nhô chậy hoa cây cảnh. Toà tu viện uy nghi đồ sộ toát ra không khí của thời trung cổ, thần quyền giáo lý bao trùm thế gian.
- Tu viện này xây từ hồi các nhà truyền giáo Pháp và Bỉ đặt chân lên đất Tây Nguyên. Nó hoàn toàn cách biệt thế giới bên ngoài.
Vị linh mục xuống xe, to béo trắng trẻo, oai vệ chẳng kém giáo hoàng. Ông là chỗ quen biết với ông Huy qua các kỳ họp của mặt trận Tổ quốc trung ương. Ông bạn già Huy đã về hưu, nhưng ông vĩnh viễn cai quản xứ này. Khi ở đây còn chế độ dân chủ tư sản. Nam Bắc chiến tanh, ông có tham gia tích cực phong trào “Nguyện cầu hoà bình”. Khi quân cách mạng tiến vào giải phóng cao nguyên, ông đứng ra cổ động phong trào “cứu vớt nạn nhân chiến tranh”. Đại hội công giáo yêu nước họp ở thủ đô gồm các giám mục linh mực thứ thời, đạo đời trung dung, ông đã ra họp dù không được giám mục địa phận cao nguyên đồng ý. Ở đấy, ông đã diễn thuyết những điều làm giám mục không hài lòng.
Hôm nay nhân dịp ông Quang Huy vào thủ phủ Tây nguyên viếng mộ (bà Đức Hạnh được chôn cất tại nghĩa trang Ban Mê, do hy sinh trên đường công tác qua cao nguyên năm 1972); Ông mời đến tham quan tu viện.
Bà Nhất tu viện ra đón khách, lịch sự một cách lạnh lùng. Đôi mắt uy quyền, đôi môi của cái miệng không bao giờ cười, giọng nói của người chỉ biết rao giảng dậy dỗ.
Tu viện từ chối tất cả những gì là nam tính. Không bao giờ có đàn ông đến đây, trừ trường hợp đặc biệt này.
Bà Nhất đưa khách đi xem một vòng quần thể kiến trúc. Nhà nguyện của các nữ tu. Nhà giảng giáo lý. Và các khu nhà ở, nhà ăn, nhà phạt kẻ phạm lề luật.
Chủ yếu là xem khu rừng cà phê của tu viện, và cơ sở chế biến rất hiện đại. Đó là ngành kinh doanh làm giàu cho Nhà thờ và tu viện.
Gần trưa, buổi tham quan kết thúc. Ông Huy cám ơn bà Nhất ra về. Xe nổ máy bắt đầu lăn chầm chậm thì có bóng một người nữ tu từ phía trước đi lại. Không hiểu sao ông Huy lại ngắm người nữ tu, một người trạc 50, rất đẹp, đôi mắt to đen lấp lánh sau cặp kính trắng. Và kìa... sao trông quen quen.
- Khoan đã... – ông Huy buột miệng.
Người nữ tu cúi chào Đức Cha trong xe. Ông Huy vội mở cửa:
- Xin lỗi bà...
Hình như ông đứng không vững, tay phải vịn vào cửa xe.
Người nữ tu và ông đối diện nhau. Cả hai cùng mở to mắt. Gương mặt người nữ tu đang trắng hồng rạng rỡ thế mà đột nhiên tái ngắt.
- Bà là bà Nô en - Giọng ông hụt hơi. Người nữ tu run rẩy:
- Vâng... Tôi là Nô en.
- Bà còn nhớ tôi không?
Bà nữ tu gật đầu, làn môi khẽ cười như điểm xao động trên mặt hồ phẳng lặng.
- Ông Huy, không ngờ lại gặp ông.
Chiếc Tôyôta lại chầm chậm lăn bánh. Khi về đến khách sạn ông Huy vội khoá trái phòng, ngồi lặng xuống xa lông. Có lẽ nào lại có thể nhận ra nhau sau hơn 30 năm một cách dễ dàng thế. Vô lý. 30 năm, cả một cuộc đời người, mà lại có thể nhận ra nhau trong tích tắc. Không - người nữ tu ấy không phải là Nô en. Chỉ là ảo ảnh thôi. Ta thì đã già thế này, mà bà ấy sao vẫn trẻ đẹp thế được. Thời gian không có đối với con người ấy hay sao. Hay là sự đồng trinh thánh thiện làm cho con người tinh khiết tươi non mãi mãi.
Ồ... Hôm nay là ngày gì. Ta đã quên người đàn bà ấy rồi cơ mà. Ta già, già sắp chết rồi. Thế mà éo le quá, lại gặp con người ấy. Nhưng lẽ ra, gặp thì gặp, bình thường. Tại sao ta lại xốn xang bàng hoàng thế này. Thật xấu hổ. Tuổi già lại có gì giống hệt tuổi trẻ sao?
Bà Nô en, sao bà cũng còn nhận ra tôi nhỉ. Và bà còn mỉm cười. Bà đã nói “Ông Huy...” Bà đã nói tên tôi. Bà Nô en, hãy tha thứ cho tôi. Lòng người chân tu nhân từ bác ái. Chỉ có sự nhân từ bác ái, chỉ có sự đồng trinh thánh thiện, bà mới có thể có được vẻ đẹp sáng trưng tinh khiết mà tôi vừa được chiêm ngưỡng.
Còn tôi lặn hụp giữa cuộc đời trần tục này nên đã trở thành một ông già yếu ớt, run rẩy, cô đơn...
... Vũ gia trang được xây dựng khởi thuỷ từ hồi cụ tổ ba đời đến vùng này nhậm chức tri huyện. Mỗi đời thêm một tí, và đến đời cụ Án thì hoàn chỉnh.
Gia trang dựa lưng vào dẫy đồi thấp và đằng trước có khe nước đúng “mô hình” cổ điển “Diểu diểu sơn phù hậu. Mang mang thuỷ tụ tiền”. Xung quanh là một hàng rào tre gai lâu đời dầy hai mươi thước, cành đan chằng chịt, con kiến chui không lọt. Thành đất còn bị súng thần công bắn thủng, chứ thành tre gai thì đạn thần công chẳng ăn nhằm gì.
Cụ thân sinh ra cụ Án từng nuôi hàng chục thờ đẽo đá trong nhà ròng rã năm này qua năm khác. Đá cẩm thạch tuyệt đẹp, có ngay núi sau nhà. Gia trang nổi tiếng nhờ những công trình bằng đá.
Cổng chính mái đá, cột đá. Đường vào lát đá phiến, uốn lượn giữa hai hồ nhỏ. Trước khi vào sân lớn, khách phải đi qua một cái cầu đá cong cong gọi là “cầu thệ thuỷ”. Gia trang có một vườn cổ thụ sau nhà gọi là vườn “nghênh phong”. Thông, tùng, đa, si đầy bóng mát và rắc lá vàng trên các lối đá quanh co dẫn đến lầu “Tị huyên” tám mái ghép toàn bằng đá, không có một viên gạch màu gỗ nào. Đó chính là niềm tự hào của gia trang thể hiện tính cách tài tử của các bậc khoa bảng nối tiếp nhau dòng họ Vũ.
Toà nhà chính, không có gì đặc biệt, thiếu bốn mái cong thì thành cái đình. Tối om om, không cửa sổ. Bước vào, rợn người vì ban thờ cửa võng sơn son thếp vàng, la liệt cờ biển “ân tứ vinh quy”, “Đệ nhất giáp tiến sĩ” hoành phi câu đối “Chu tử mãn triều” và bút tích của các cụ tổ.
Mùa hè năm ấy, Vũ gia trang vắng ngắt, cụ Án và cô hầu gái đi dạo chơi non nước với các bạn đồng liêu, đồng khoá. Huy cùng Hảo từ Trại Dẻ về, để đôn đốc ông Bộc - một ông già tráng kiện, quắc thước mặt đỏ hồng, râu bạc; quét tước sửa soạn đón em út Thu Hằng và bạn học từ Hà Nội về nghỉ hè, chơi cảnh thôn trang.
Một buổi sớm. Chiếc ôtô “đít vịt” đen bóng bóp còi toe toe trước cửa. Thằng Hảo vội chạy ra mở cổng. Xe leo qua cầu “Thệ thuỷ” vào sân chính. Bước ra, cô tiểu thư Thu Hằng giò dài nghêu, váy đầm ngắn quá đầu gối, và một cô gái vừa ló mắm đã làm Huy sững sờ.
- Giới thiệu, đây là Nô en bạn cùng lớp em.
- Rất hân hạnh, chào Nô en.
Huy đưa khách vào ngôi nhà mênh mông tối om, phải thắp nến, làm Nô en cứ nghếch lên nhìn cờ biển võng lọng, tưởng đây là đình chùa.
Hảo vừa pha trà ướp sói xong, Thu Hằng đã kêu lên:
- Ngồi đây khó chịu quá. Ra vườn Nghênh phong đi. Bọn này không ngồi trường kỷ gỗ gụ uống trà Chính Thái, đọc Đường thi, ngửi hương trầm đâu. Anh Huy tiếp bọn này theo kiểu “bá tước Châu Âu” đi.
- Đã chuẩn bị. Nhưng chả lẽ khách chưa mời vào nhà đã dắt ra vườn?
Nô en cười giòn giã.
- Bác Tham – Ba Nô en, cho chúng ta mượn chiếc ô tô kia một tuần. Nô en tự lái, lái có bằng đấy nhé, tha hồ đi đâu thì đi. Và trong cốp xe, mẹ Nô en đã chuẩn bị đủ mọi thức ăn “sản phẩm thành phố”. Còn anh, đã chuẩn bị cho bọn này “sản phẩm đồn điền” những gì rồi.
- Dạ có gà gô, hạt gắm, trứng kiến, nấm hương, thịt nai khô, nếp cẩm, mật ong, chim rẽ... Cháu lo đủ rất rồi ạ - Hảo chen vào.
- À thằng này giỏi – Thu Hằng xoa đầu nó.
Bữa tiệc đãi khách đầu tiên tổ chức vào 5 giờ chiều, lại vườn “nghênh phong” và lão Bộc lấy làm khó chịu thấy thằng ôn con trên đồn điền về tranh mất “địa vị” của mình. Nó lanh lẹn, hoạt bát, thoải mái làm các cậu cô chiêu thích. Còn ông chủ thì tỏ ra lạc hậu chỉ thích hợp với việc rót rượu tam xà, hay trà Ô long, Chính Thái, Vũ di cho các cụ Nghề áo gấm râu dài đến ngực.
Ông Bộc cho bày bộ bàn ghế gỗ gụ đen bóng, hoạ tiết nho sóc đẹp nổi tiếng, nhưng Huy bắt phải phủ bàn, lót ghế bằng đẹm bông trắng muốt để khỏi đau đít các tiểu thư (rõ đồ nũng nịu), (ngu nữa, phủ vải lên thì làm sao còn thấy được cái đẹp của bộ bàn ghế). Lão càng khinh khi thấy Thu Hằng lôi từ cốp xe ra nhưng tảng giăm bông, xúc xích, bia chai, phích đá, bánh ga tô. Lão giấu biệt bộ ấm chén cổ “Mai hạc” quý giá đồ dùng trong nội phủ xưa, chỉ bày ra mấy cái ly thuỷ tinh cao lêu nghêu như cò đúng một chân. Cũng đừng hòng lão kỳ công minh chân tay hươu kho (vẫn gác bếp dự trữ) cho mà ăn, mà chỉ rán luộc gà, cá, chim, nhì nhằng.
Trái với ước đoàn của lão, bữa tiệc vẫn diễn ra vui vẻ. Trong tiếng nhạc thánh thót từ chiếc máy hát vặn cót, các “thực khách” chạm cốc, và dùng những chiếc dĩa sáng loá nhọn hoắt như cào xúc phân xiên những miếng thịt “chọc” vào mồm (thật không biết ghê).
Lão Bộc rút lui hẳn khi thấy ăn xong, trong tiếng nhạc, các cậu ấm cô chiêu ôm lưng dìu nhau ra nhẩy van trên thảm lá vàng. Thật không còn thể thống gì nữa, Cậu Huy ôm lưng cô tiểu thư Nô en, rồi lại ôm lưng cả em gái Thu Hằng, quay tròn, váy xoè tung lên hở cả đùi cả vế...
Suốt tuần, Huy nghĩ ra đủ các “hoạt động” vui chơi. Nệm cỏ sạch tinh, cổ thụ toả mùi thơm hắc, trăng lên vằng vặc giữa trời, ba anh em dạo quanh lầu “Tị huyên”. Tị huyên nghĩa là tim nơi thanh vắng, tránh tiếng ồn. Chiều thu, nắng vàng óng, ba anh em bơi thuyền trên hò, hộăc đánh ten nít.
Chơi chán, hết “trò”, Huy dắt hai cô vào xóm. Nô en thắc mắc mãi không hiểu được tại sao trẻ con chân đất, không giày dép mà lại không đau chân, gai đâm vì trùng vốn ván lọt vào thì sao. Lại nữa, không nhà nào có màn, muỗi đốt hút hết máu còn gì!
Nô en thích chụp ảnh. Cảnh cầu ao tre có cô gái quê vén quần khoả thân. Cảnh mái đao đình cong vút. Ngõ trúc quanh co, bóng người đàn bà nón thúng quai thao. Cây đa giếng nước đầu làng... Cô thức hai đêm để viết bài văn tả cảnh xứ quê đất Việt. Thu Hằng mách Nô en giỏi văn nhất trường. Nô en có chú là chủ bút Nhật trình, thỉnh thoảng nàng lại đăng một bài tả cảnh sắc đâu đó kèm theo ảnh. Nô en được cả trường gọi là “nữ sĩ”.
Nô en nhắm mắt rùng mình khi trông thấy bát tương có gua trắng bơi nguẩn ngoang đặt giữa mâm cơm. Rùng mình thấy người ta rửa mặt nước ao tù. Lắc đầu lẽ lưỡi nhìn các cô thợ cấy lội nước ngập ngang lưng. Nhưng trong bài văn nàng tả thì xứ quê đất Việt thơ mộng khôn xiết, chỉ toàn bến nước trăng vàng, má hồng thôn nữ, mái rạ hương đất, chim vườn quả ngọt.
- Tại sao em không tả nhà quê trong cái đói nghèo thật của nó – Huy hỏi.
- Đói nghèo là chuyện ngoài đời. Còn trong văn phải tả cái đẹp chứ.
- Sao không chụp ảnh bà già trật yếm bắt rận cho vào mồm nhai “cốc” một tiếng.
- Khiếp... Ảnh thế ghì ghê chết.
... Hai ngày cuối cùng, Huy đưa hai cô đi thăm hai quần thể kiến trúc đẹp trong vùng: Ngôi chùa cổ và Khu nhà thờ đá.
Buổi sáng, họ đến chùa Cả. Bà sư ra đón lễ oản chuối hương hoa rồi đưa đoàn đi “tham quan”. Chùa làm cách đây mấy trăm năm do một công chúa thất tình bỏ kinh thành về đây đem theo mấy trăm lượng vàng, xây dựng nên. Hiện có tượng công chúa ở nhà Tam Bảo.
Chùa đồ sộ, tượng phật trùng trùng lớp lớp trên bậc Nô en tròn xoe mắt, cô bé bị lạc giữa thế giới của các Đức Phật La Hán Kim Cương, mỗi người một vẻ tượng trưng cho cá tính cách ngoài đời.
- Bi kịch thất tình của công chúa như thế nào – Nô en hỏi.
- Tôi không biết – Bà sư lắc đầu.
- Chắc là yêu một chàng trai tuấn tú kiệt xuất nhưng lại bị vua cha ép hả cho một ai đó vì lợi ích chính trị chi phối.
Bà sư trạc năm mươi, thấp đậm trắng trẻo, mắt phượng rất đẹp, nét đăm chiêu nỗi buồn nội tâm. Căng trong làn áo gụ tu hành là làn da nõn nà tinh khiết, càng bật lên giá trị gợi cảm. Tại sao người đàn bà này không sử dụng kho báu giời cho chứa ngay trong dung tích thân thể mình.
Bà cũng là người thất tình chán đời, xa lánh sắc dục chăng?
Tội quái gì phải đi tu nhỉ - Nô en bảo Thu Hằng - Tớ mà thất tình với người này, sẽ đi yêu ba bẩy người khác thế vào!
Ba người thắp hương vái Thích ca.
Huy giải thích:
- Chính ông này đẻ ra đạo Phật đấy, ông là thái tử, bỏ ngai vàng, đi ngồi “thiền” - dưới gốc cây Bồ đề, chim làm tổ ở vành tai mà không biết. Chính ông đã khám phá ra sợi dây nhân duyên ở đời gồm mười hai cái khoen.
- Cái gì? Nô en, Thu Hằng trố mắt.
- Cái khoen... Khờ... oen... khoen. Cái này dính với cái kia. Mọi bí mật của sự sinh diệt vạn vật ở trong mười hai cái khoen ấy. Đời là bê khổ. Chúng sinh khổ vì tham muốn. Muốn khỏi sinh, diệt; phải đập vỡ sợi dây mười hai cái khoen ấy.
- Chả hiểu anh nói cái gì.
- Tôi đang nói sách Phật. Vô minh là nhân sinh ra Hành. Hành sinh ra Thức. Thức sinh ra Danh sắc. Danh sắc sinh ra Lục nhập. Lục nhập sinh ra Xúc. Xúc sinh ra Thụ. Thụ sinh ra Ái. Ái sinh ra Thủ. Thủ sinh ra Hữu. Hữu là nguyên nhân của Tái sanh. Tái sanh là nguyên nhân của sự già chết... Đó là nguyên nhân của các điều thống khổ.
- Nô en, dân công giáo đọc Kinh thánh chọi lại anh tớ đi.
- Tớ không còn là con chiên ngoan đạo lắm, nên cấm thuộc một câu Cựu ước Tân ước nào. Phải mẹ tớ cơ, mẹ tớ sẽ làu bàu.
- Chẳng phải chờ mẹ Nô en. Ngày mai đi thăm nhà thờ, tôi sẽ đọc kinh thánh cho các cô nghe.
- Anh thật là một người thông minh và... vô đạo. Kinh phật của người ta thiêng liêng mà lại dùng từ ấm ớ... Khoen khoen là cái gì...
... Nếu như quần thể kiến trúc của ngôi Cả chùa kín đáo thâm u cổ kính phương Đông thì kiến trúc toà nhà thờ đá nguy nga, chiếm lĩnh không gian, cổ kính kiểu phương tây. Nhà thờ này được xây từ hồi các cha cố Bồ Đào Nha đến truyền đạo. Các kiến trúc sư phương Tây đã dùng vật liệu hệt như ở Vũ gia trang, cái gì cũng bằng đá. Tường đá, thềm đá, lan can đá, sân đá. Nhà thờ uy nghi một màu xanh cẩm thịch quý giá.
Thấy chiếc xe du lịch sang trọng, vị linh mục vội ra đón. Ông người Tây, râu dài kín ngực, nhưng nhìn kỹ còn rất trẻ, mắt xanh biếc, người son sả.
Huy, Thu Hằng, Nô en đều nói chuyện với ông bằng tiếng Pháp. Ông thắp nến, đọc mấy câu kinh chiếu lệ, điệu bộ có gì lúng túng, không tự nhiên. Tại hai cô gái trẻ đẹp này chăng? Tại giọng phát âm tiếng Pháp rất chuẩn của Huy? Ngôn ngữ gợi nhớ miền đồng nho, lâu đài mái đá đen thời Trung cổ!
Sau lần áo chùng đen, tấm thân trẻ trung của người linh mục sống động. Và đôi mắt, tuy khác mầu, nhưng cũng có gì giống bà sư chùa Cả.
Sao? Lại thế nữa ư. Một trường hợp nữa ư. Sao chàng trai này rời bỏ quê hương đầy rượu nho ngọt lịm và thịt da thiếu nữ như nắng hồng, đến đây khổ hạnh tu hành. Chẳng lẽ cũng chán đời, thất tình?
- Người linh mục trẻ đẹp này chắc thuộc Nhã ca  “nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình chàng ngon hơn rượu”. Lúc ra về. Huy đọc ngân nga.
- Lạ nhỉ - Kinh thánh trang nghiêm sao lại có những như thế.
- Chương “Nhã ca” của Salômôn rất hay trong kinh thánh.
“Hỡi các cô gái Giê se xa lem
Ta ép nài các người
Bởi những con hoàng dương hay là con nai đồng nội
Chớ kinh động chớ làm tỉnh thức ái tình ta
Cho đến khi nó muôn”.
- Sa lô môn là ai – Thu Hằng hỏi ngây thơ.
- Đó là vua trị vì Y sơ  ra ên thời thịnh trị xa xưa.
“Vua Salômôn làm cho mình một cái kiệu bằng gỗ Liban
Người làm các trụ bằng bạc
Nơi dựa lưng bằng vàng
Chỗ ngồi bằng vải màu điều
Còn ở giữa lót bằng ái tình
Của cá con gái Gieruxalem”.
Vua có những vần thơ ca ngợi người yêu của mình, và đó là những dòng tuyệt tác của chương Nhã ca.
“Em gái ta, tân phu ta là vườn đóng kín.
Là nguồn nước khoá lại, là nguồn suối niêm phong.
Đám cây minh là vườn địa đàng
Có thạch lựu và trái ngon
Hoa phụng tiên và cây cam tòng”.
Nhã ca kinh thánh còn “nói rõ”:
“Hai nương long mình như cặp con sinh đôi của hoàng dương”
Thả ăn giữa đám hoa huệ”.
Đố Nô en và Thu Hằng biết câu đó “tả” cái gì.
- Chịu.
- Đôi vú thiếu nữ.
Nô en và Thu Hằng bật cười.
Chiếc xe “đít vịt” máy êm ru. Nô en đeo găng trắng cầm vòng lái. Đường quê ngoằn ngoèo giữa đồng lúa ngầm ngập nắng thu vàng. Chiếc xe như một con cánh cam nhấp nhô rón rén...

*
* *

Dục kéo tấm thảm treo tường hoa văn trống đồng sang một bên. Lộ ra một cánh tủ đặc biệt. Thoáng nhìn tưởng chỉ là gỗ áp tường. Anh tra chìa khóa. Cánh tủ lim dày nặng nề quay, trong đó là két sắt như khối đá dựng đứng.
Có của phải giữ lấy của. Chỉ thằng ngu mới không biết giữ của. Của đổ mồ hôi sôi máu mắt mới kiếm ra được, tội gì để kẻ trộm nẫng mất. Thời buổi bây giờ không khoá tủ nào có thể chống được chúng. Phải có kết hợp với sự “đánh lừa” không để chúng phát hiện mục tiêu.
Dục tự tay thiết kế hệ thống bảo vệ của cải này.
Xi măng cốt sắt dày bao quanh tủ. Gỗ tủ dày ba phân và thảm trang trí phủ ngoài, đánh lừa...
Dục rút ra một xấp bạc, đồng thời đảo mắt soát gói vàng lá, vàng nhẫn, hạt xoàn. Xấp tiền này đem “viện trợ” cho ông già xài mấy tháng tới. Ông không túng thiếu gì, nhưng anh thấy phải có nghĩa vụ cung cấp đều đặn để ông tiêu pha thoải mái.
Chỉ có điều “buồn cười” là ông cứ tiêu tiền của ta những vẫn cứ giận, khinh ta – Nhưng thôi, biết làm thế nào. Tính cách ông đã “bị” ổn định. Cố chấp! Không thể thay được nữa!
Mỗi người trên đời đều có một người cha. Và con thường giống cha. Ta cũng có một người cha và đã giống ông ấy về cơ thể dung nhan. Cân đối, đẹp trai, tuấn tú. Ông ấy thông minh, ta cũng không ngu đần. Ông ấy hoà hoa phong nhã, ta cũng hào hoa phong nhã. Vậy mà sao hai cha con không thể sống chung một mái nhà. Lạ thật, sao thế nhỉ?
Ta hiểu cha ta. Ông ấy là một người sang trọng. Từng có tiếng một thời. Nói theo kiểu đời xưa là có danh vọng, sự nghiệp. Không phải loại giá áo túi cơm. Ta kinh trọng ông. Nhưng buộc vẫn phải dùng một từ thiếu lễ độ để chi ông: điên. Điên mang nội dung xã hội chứ không phải bệnh lý thần kinh. Ông đã bị cuộc đời “nhào nặn” thành một người không phải ông. Thời gian sói mòn, sự lặp đi lặp lại nhuộm màu, hoàn cảnh tác động. Ông đã thành người trung dung, người “tòng tâm sở dục bất du cả”. Việc ông giận cả ta lẫn Trinh – con trai con gái của ông, hoàn toàn mâu thuẫn với bản chất ban đầu của ông. Cái “tội” của ta và Trinh chính là “phù hợp” với tính cách ban đầu thủơ còn như tờ giấy trắng của ông chứ. Vậy mà ông về già, đã cố chấp, đã giận, đến nỗi bố con khó mà ngồi trò chuyện cùng nhau. Đến nỗi ta và Trinh cảm thấy mái nhà “Cổ phong” ngột ngạt và nên có khoảng cách không gian với ông.
Dục đút xếp tiền vào túi mở máy chiếc Vétspa phóng về Cổ phong. Cổng đóng, lá vàng phủ ngập ngôi biệt thự hiu hắt. Mùi cỏ, mùi rêu, mùi ẩm mốc bốc lên. Ông già đi vắng. Dục ngồi một mình trong phòng khách vắng lạnh ngắm bức tranh thuỷ mạc có từ đời cụ Án.
Bao nhiêu năm, cái gì ở đâu cứ ở nguyên đấy. Những bức ảnh cũ ố vàng. Đáng chú ý nhất là mấy bức chụp từ năm 1946, ông Huy đứng bên cạnh các bộ trưởng Chính phủ Lâm thời. Đặc biệt gợi tả phong thái của ông là bức bên bàn đàm phán với phái đoàn Pháp. Mắt sáng quắc, gương mặt kiên nghị và điềm tĩnh đối chọi với những gương mặt ngoại giao của kẻ quyết không chịu mất cái thuộc địa đã đô hộ tám mươi năm có lẻ.
“Hộp ảnh” về mẹ thì nhiều nhưng lại quá đơn điệu. Toàn một dạng trên bục diễn đàn. Chỗ nào cũng thấy mẹ đang “huấn thị” cho hội nghị. Mẹ là một thủ trưởng cao cấp làm công tác tư tưởng. Nhất cử nhất động, một câu nói, một cử chỉ, cách trang phục đều toát ra sự định hướng tư tưởng. Mái tóc búi (không phi dê) biểu thị tính dân tộc. Màu áo cổ thể hiện cuộc chiến tranh vệ quốc. Cách trang phục giản gị qua loa (đôi khi lôi thôi lếch thếch) là sự thách thức lối sống hưởng thụ tư sản. Kiểu quần áo cổ lỗ để ngăn chặn các mốt thời trang đang bùng nổ vì đó là hàn thẻ biểu của sự suy đồi. Thế mới biết các bác phó may cũng có vai trò triết học, xã hội học chẳng kém ai...
Dục bước ra vườn. Những hàng cây - bạn tuổi thơ của anh vẫn như xưa. Vẫn vẻ xù xì gốc cổ thụ, vẫn đầy rêu ướt rượt những cành xa.
Vừa ngày nào còn chạy lon ton quanh nó, vàng tay nhỏ xíu bíu lấy mắt gỗ, leo trèo bắt ve trẩy quả, vậy mà giờ ta đã ra người thế này. Ta thua kém những cái cây này nhiều quá, chán thật!
Dục ngồi xuống một gốc sấu. Nắng qua tầng cây soi một chấm tròn sáng trưng trên đôi mắt khép lơ mơ...
... Bà Đức Hạnh đẻ Dục trong ngôi nhà sàn người Thổ, chiến khu Việt Bắc, bên bếp lửa bập bùng với chảo rong riềng luộc đang sôi.
Năm ấy, sắp đến tháng sinh (đứa con thứ hai, đứa thứ nhất bị xẩy thai lúc 6 tháng), nhưng nữ đồng chí Đức Hạnh vẫn cố đi một chuyến công tác xa cần thiết. Quần đen gon chặt, áo gụ, tay nải đeo vai, nữ thủ trưởng trẻ tuổi một chiều dừng chân bên mái nhà sàn bốc khói lam chiều. Những cơn đau dữ dội làm cô lả đi.
Ông già Thổ chủ nhà trông thấy hiểu ngay cơ sự. Phong tục bản làng ngu muội tối tăm, ông xua tay thẳng cánh.
Người đàn bà sững lại, mắt loé tia sáng quắc dữ dội: “Ông không có quyền, dù đây là nhà của ông. Ông là công dân thuộc chiến khu, phải có tinh thần của người kháng chiến. Tôi là cán bộ kháng chiến, trên đường đi công tác, không may trở dạ. Ông phải có nhiệm vụ giúp tôi. Đó chính là thể hiện lòng yêu nước”!
Ông già Thổ sững sờ. Kháng chiến là những đoàn quân oai vệ, súng trên vai hùng dũng ra trận. Kháng chiến sao lại là người đàn bà bụng chửa vượt mặt đến đẻ nhờ thế kia được!
Người đàn bà bước lên thang, thản nhiên vào nhà. Cơn đau làm bà hộc lên, nằm vật ngay bênvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvv 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét