Lời ghi chú
đầu sách
Trong cuốn
chuyện tình giải trí này, phần bối cảnh có một vài chi tiết nhắc đến những sai
sót ấu trĩ của một thời. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng với công cuộc đổi
mới lớn lao, chúng ta đã khắc phục về cơ bản. Nhìn lại để càng thấy giá trị của
ngày hôm nay…
Tác giả
Ngôi biệt thự
“Cổ phong’ chìm trong nắng hanh chiều vàng óng. Không gian yên ắng, chỉ có
tiếng chim sẻ lích chích trên mái ngói rêu mốc, tiếng lá rạn khô lép bép trong
vườn. Ngôi nhà có từ đầu thế kỷ, tuy lúc đó người ta vẫn phải dùng vôi trộn
mật, giấy bản để đắp nổi hoa văn trang trí, nhưng không phải là hình long ly
quy phượng nữa mà là đường kỷ hà hình học, lá hoa cách điệu.
Trên chiếc
ghế đá cạnh hòn non bộ cạn khô nước, đầy lá vàng phủ ngập, có một ông già đang ngồi
trầm ngâm, mắt nhìn về một cái gì vô hình. Một cô gái vận đồ thể thao trắng
chăm chú vẽ chân dung ông trên khuôn lụa.
Bức vẽ sắp
hoàn thành.
Ông già trên
lụa có mái tóc bạc, gương mặt nhuốm màu thời gian, đôi mắt trầm tĩnh, cặp môi
như sắp thốt lên một điều gì…
Cô gái vẽ
kiên trì, mê mải. Gương mặt đẹp và hơi ngây ngây, trắng như bột nặn của cô sáng
lên dưới nắng. Mắt cô và mắt công già trên lụa cứ nhìn nhau và như đang điều
khiển nhau một cái gì đó.
Ông già trên
ghế đá thì vẫn ngồi bất động. Một con kiến đen bò qua những cuống lá vàng còn
thơm mùi nhựa leo lên vạt áo ông. Hình thù con kiến hằn rõ giữa vạt áo trắng
mênh mông, chính điều đó làm nó hoảng sợ, vội vàng bỏ trốn.
Nắng trong
veo, ngân lại và rung lên nhè nhẹ. Nắng sưởi khô rất nhanh nét sơn dầu. Với
đường vẽ chính xác, tài hoa, cứ sau mỗi nét vờn nhỏ, gương mặt ông già lại hiện
lên rõ hơn, và càng gần đến phút giây đôi môi kia sẽ bật ra điều mà ông muốn
nói…
*
* *
Đêm đã khuya,
mọi âm thanh của thành phố sôi động đã ngừng lại, giờ này chỉ còn thức những
người cảnh sát đi tuần tra, những ông già gác đêm công sở, những hạ sĩ công an
ngáp dài bên bục gỗ cửa sứ quán.
Nhưng ông Huy
chưa ngủ; gióng như tất cả mọi đêm, từ lâu quen rồi.
Đêm yên ắng,
một tiếng lá sột soạt ngoài vườn vọng vào cũng nghe rõ. Ông bắt đầu đi lang
thang trong các căn phòng của mình. Thói quen như thế…
Ông Huy không
đọc sách thâu đêm như những “con mọt sách”. Kệ sách kín tường nhưng người ta
đâu có phải là con kiến để bò từ dòng này sang dòng kia, ngửi mùi mực in độc
hại, hít bụi xentuylô ẩm mốc.
Ông chỉ đọc
những gì mà ở đấy không thấy có sự dối trá, lừa bịp, ở đó phải là các chân lý
đích thực, nhờ đó mà giống người tồn tại được trên mặt đất này, không bị diệt
vong như loài khổng long cổ đại.
Tất nhiên để
nhận biết chân lý khó như đãi cả bãi cát, lấy ít vẩy vàng. Nhưng mặt khác chân
lý cũng khó bị khoả lấp như hạt tốt vùi trong đất lành, sớm muộn sẽ vươn mầm
xanh lá.
Hình như đến
90% số lượng trên kệ sách là đồ đáng bỏ đi. Cũng như đến 9/10 chương trình ti
vi, rađiô, bằng nhạc là vô dụng. Cho nên tốt nhất là để cho đêm im lặng, cho
tiếng sương rơi tí tách, cho lá xào xạc, và ông lại đi lang thang trong các
phòng của mình mà ngẫm nghĩ. Sự im lặng ấy giống như sự im lặng của hạt vùi
trong đất.
Ông bắt đầu
xuấ phát từ phòng khách. Cái phòng khách có bộ sa lông gỗ gụ trạm trổ có từ
thời cậu Cử luật học Vũ Quang Huy mới tốt nghiệp ở Pari về, đặt cạnh chiếc tủ
gỗ tạp vênh váo của bà Đức Hạnh (vợ ông) để bà đựng các hồ sơ bảo mật cực kỳ
quan trọng.
Tại phòng
khách này, ông đã tiếp bao nhiêu người… Có người là yếu nhân chính phủ đến có
xe công an hộ tống, nhưng hồ hởi giản dị thân tình ôm ông khi ông còn đứng trên
bục cao tam cấp, và sôi nổi những câu chuyện liên quan đến vận mạng đất nước.
Chính trên
chiếc sa lông này, vị yếu nhân xưa đã ngồi khi còn là chàng thanh niên con nhà
quyền quý, bỏ học, đi làm cách mạng, sống cải trang, đêm đêm đến đây viết những
bài xã luận cách mạng bốc lửa đăng trên báo chí bí mật. Những điều tưởng như
không tưởng ấy, vậy mà sau bao nhiêu năn, đã thành hiện thực.
Ông Huy qua
phòng kế bên. Nơi này, mấy năm trước, Dục - con trai ông và Trà Mi (vợ nó) đã
sống. Nhưng bây giờ mạng nhện chăng trên bàn trang điểm. Chiếc gối cưới cứt
chuột nhắt vãi như đậu đen trên hình thêu chữ Hỷ. Thỏi son môi còn sót khô
quắt.
Từ phòng con
trai, ông sang phòng con gái. Trinh - đứa con gương mặt giống ông như tạc. Con
bé xung khắc với mẹ, luôn đóng chặt cửa để nghe nhạc Rốc một mình, luôn phản
đối các quyết định độc đoán của mẹ bằng phương pháp cổ điển của các nhà cách
mạng là… tuyệt thực. Bất chấp lời đay nghiến của mẹ, con bé thường mặt những
chiếc mini juýp, mở nhạc nhẩy điscô, khiến bà mẹ đau lòng tê tái bất lực trước
sự “suy đồi” đạo đức ngay ở trong nhà mình. Bà thực lòng muốn giáo dục con bằng
cách bắt nó lập một “sổ tu dưỡng”, luôn tự mình viết kiểm điểm trên giấy (giống
như một mình sám hối trước chúa); bắt nó đi sinh hoạt chi đoàn học tâp các tài
liệu, nghị quyết chính trị v.v… và v.v…
Con bé nghiên
cứu và giảng dậy ở trường Đại học kiến trúc. Còn sót đây trên bàn làm việc của
nó cac bản vẽ thiết kế đô thị trông như hình vẽ mê cung, các đĩa nhạc Rốc với
hình cô ca sĩ tóc “xì tôn” xù ra như tổ quạ mà dân gian mình xưa cho là cực xấu
thì giờ lại thành mốt quốc tế. Có con nhện bọ gì đó làm tổ êm ấm trong cái lọ
pha lê Tiệp mà xưa nó thường cắm hoa hồng bạch (chỉ cắm hoa hồng bạch).
Ông Huy sang
đến phòng vợ, dừng lại lâu hơn một chút. Ảnh bà nhìn ông trên tường, mặt khắc
khổ nghiêm nghị; cái nhìn của bà nữ tướng trước hàng quân, vẻ nghiệt ngã của
một dạng đàn bà làm thủ trưởng đàn ông. Con người rè bỉu các thứ nữ trang, coi
son phấn là biểu tượng đĩ điếm, mốt thời trang là sự suy đồi. Đó là một người
đàn bà không biết đến các trạng thái bâng khuâng thổn thức là gì; chỉ có sự hăm
hở sục sôi, sắt đá, không lủi bước, và quyết chiến thắng.
Một chiếc
lược gỗ, chiếc áo lõi bông, đôi dép cao su đủ quai, một chiếc khăn len vuông,
những chồng cặp ba dây đầy tài liệu chính trị, một sổ tiết kiện gửi tiền đều
đặn, dù tiền mất giá hàng tuần cũng mặc. Đó là tất cả những gì bà ngã xuống
ngoài mặt trận, không về nữa, để lại cho ông trong chiếc tápđờnuy gỗ bao bì kê
ngay đầu giường.
Thường thì
ông Huy lên gác hai vào phòng “lưu niệm gia đình” trời đã quá nửa đêm. Tắt công
tắc điện, thay vào đó ông thắp giá nến ba mươi ngọn. Cái giá bằng đồng trạm trổ
cầu kỳ đúc ở Pari từ thế kỷ trước, vẫn dùng trong các phòng khách của các công
tước thời xưa...
Dưới ánh nến,
trong khung kính sơn son thếp vàng hiện lên tấm hình quan Nghè Múc – cha ông –
mũ mãng cân đai bá tử oai vệ, nhưng mặt non choẹt, búng ra sữa (ông đỗ khi còn
thiếu niên). Cam đoan rằng quan này bụng đầy chữ nghĩa thánh hiền, nhưng đêm
ngủ vẫn thích rúc đầu vào nách mẹ.
Những bức ảnh
khác, trông quan Nghè lại “già” quá. Ngoài ba mươi mà để râu dài như ông cụ,
ngồi ghế Án sát giữa công đường. Đôi mắt quan Án cương trực nổi tiếng một thời
như vẫn lấp lánh. Cái giai thoại về ông đến bây giờ dân tỉnh B.H còn kể. Trong
tiếc Cáttóduydê, quan công sứ Pháp chiêu đãi, ngài Án đã rút mùi xoa lau tay
sau khi bắt tay quan công sứ Pháp. Cũng là một thứ khí tiết “nho gàn”, “mất
lịch sự” nhưng dù sao không phải chuyện đùa...
Ông Huy nhìn
sang bức ảnh năm anh em chụp trước cửa Dinh Án sát. Tất cả mặc soóc trắng, kể
cả em gái út Thu Hằng. Mới đấy với đấy mà bây giờ mỗi người một phương trời. Có
lẽ không gia đình nào lại ly tán như gia đình này. Châu Âu chưa đủ, còn cả châu
Mỹ, Tây Âu chưa đủ, còn cả Bắc Âu. Thư Thu Hằng nói mỗi lần họp gia đình ở Pari
thì những đứa cháu chung người ông nội, ngoại là cụ Nghè Múc, nhưng nói bốn thứ
tiếng khác nhau. Đứa nói tiếng Mỹ, đứa nói tiếng Đức, đứa nói tiếng Pháp, đứa
nói tiếng Bỉ, không đứa nào hiểu đứa nào, phải chờ phiên dịch... Thật buồn
cười!...
Sau phòng lưu
niệm, ông Huy xuống vườn. Vườn nhỏ nhưng đủ loại cây cảnh: phòng, liễu, đào,
mai, hồng, mộc, tùng, cúc.
Cây xưa chỉ
là cây, liễu mai tùng chỉ là liễu mai tùng, nhưng từ ngày ông về già, bà Đức
Hạnh chết, Dục và Trinh đi ở nơi khác... thì chúng không còn “chỉ là cây” nữa.
Ông đi khắp vườn, không bỏ sót gốc nào, tay vịn vào chúng, cạy ít vỏ nhựa, ngắt
một chiếc lá, hoặc chỉ ngước lên nhìn vòm ngọn sương rơi tí tách. Ông thích
những cơn gió nhẹ đia qua làm cả vườn đêm nói thì thừo; những chiếc lá vàng lả
tả rụng xuống vai. Đêm nào ông cũng ngắt một trái gì đó trong vườn, vừa đi vừa
nhấm nháp. Có khi là trái táo chín thơm lựng; nhưng khi lại là một quả hồng
xanh. Không có quả, nhấp búp lá, cánh hoa hồng bạch.
Có đêm nửa
tỉnh nửa mê, ông thấy mình trẻ lại thành chàng thư sinh lạc vào trại cây bỏ
hoang góc kinh thành trong truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Ngày xưa ông
đã dịch truyện đó in ở báo Pari. Lúc đó ông còn trẻ, đang yêu, háo hức ý tưởng
xây dựng tương lai văn hoá dân tộc.
Câu chuyện
chàng thư sinh với cô Liễu, Đào, Mai - hồn của những cây liễu đào mai hư hư
thực thực, vừa đẹp vừa ma quái, sao mà ông thấy thật hay, thật hiện đại, chẳng
kém gì những sáng tác hiện thực huyền ảo nổi tiếng bây giờ.
Bác sĩ Vũ
Tuần - người vẫn chữa bệnh cho ông, sau khi nghe kể giấc mơ về Liễu Đào Mai đã
bảo ông nên chặt những cây đó đi, nhưng ông không nghe. Và đêm đêm ông vẫn cứ
tha thẩn bên nó cho đến khi thần kinh chìm vào giấc ngủ mờ mịt. Nhiều hôm sáng
ra, người ta thấy ông thiêm thiếp say trên thảm lá vàng, mấy con bướm trắng
tinh thì cứ bay dập dờn trên mái tóc bạc.
*
* *
Ông Huy tỉnh
dậy lúc mặt trời rọi sáng trưng rèm đăng ten trắng bên cửa sổ. Cô chủ quán đã
bưng vào một ly cà phê thơm phức (theo hợp đồng 365 ngày = 365 ly). Ông ghiền
cà phê từ nhỏ. Không có, cả ngày uể oải.
Cùng với thói
quen uống cà phê là thói quen cắm hoa, thay khăn giải bàn phòng khách, ăn mặc
chỉnh tề, đồng bộ.
Sớm nay, chủ
nhật có việc. Ông Huy dắt xe đạp ra cổng. Lối này xưa là lối chiếc Pôbêđa màu kem lăn chầm chậm tới thềm tam cấp mỗi
buổi sáng. Hai người đến “sở” với sự tương phản: ông chững chạc như bộ trưởng
ngoại giao tay xách gặp Đíplôm mát khoá kền bóng nhoáng; bà thì tóc búi, áo gụ,
tay ôm chồng cặp ba dây...
Bây giờ thì
lối cỏ um tùm trong kẽ gạch, lâu ngày không ai đặt chân tới. Cánh cổng sắt bản
lề han rỉ. Thùng thư gia đình xưa chật ních sách báo, thư từ, giờ nứt nẻ trống
huyếch hoác.
Dặng rào sắt
uốn hoa văn chữ triện, màu sơn phai bạc, hoen rỉ.
Ông Huy đứng
một lúc, ngần ngại xuống đường. Lâu mới đi xe đạp, đường đông, thấy khá vất vả.
Khu cổng ô
Tây, xưa là ngoại thành, giờ thành khu chung cư. Nhà năm tầng ở loét xấu xí.
Chẳng ra phố, chẳng thành làng. Sao không vạch đại lộ, xây nhà hai bên, cửa
hàng cửa hiệu cho ra vẻ. Ông Huy vừa ngắm nhìn khu chung cư tồi tàn vừa ngẫm
nghĩ. Lạ nhất là lề thói của thành phố: chỗ nào cũng bảo đắt đỏ đã trong bản đồ
quy hoạch. Ai muốn làm nhà khó khăn vô chừng. Chuyển chỗ ở trong thành phố khó
như từ hành tinh này đến hành tinh khác vì trăm thứ giấy tờ. Khu phố vườn caay
và hàng rào sắt vây quanh, thì băm nát ra, vẩy giấy dầu cót ép cho vài chục hộ
trong một nhà, phá tan mọi bố cục kiến trúc.
Còn khu mới
thì chỉ có “nhà chung cư” mà không có “phố”. Cả tầng chung nhau một hố xí. Ban
công ốp lồng sắt chống trộm cứ như chuồng thú.
Tại sao không
thế này, tại sao lại thế kia? Cuộc đời cứ mặc xác những câu “tại sao” đau khổ
của những người như ông – Ông bất lực nghĩ. Và chính điều đó làm ông cảm thấy
mình ở ngoài lề cuộc sống.
Vất vả lắm
ông mới tìm thấy căn hộ của Hảo. Một chú bé linh lợi, nhưng mặt già câng reo
to:
- A, ông
ngoại.
- Thông, bố
có nhà không?
- Bố cháu
xuống tầng một xách nước sắp về.
Hừ, một ông
hàm thứ trưởng – ngang quan tả thị lang ngày xưa, ở cái khu chung cư này, cũng
“mắm sốt” tất – Ông Huy bật cười.
Hảo mới
chuyển công tác từ tỉnh ra trung ương được một năm nay. Nhà cửa tuềnh toàng,
trang trí trên tường là mấy tờ tranh cổ động vượt mức kế hoạch 5 năm, ghế bàn
gỗ tạp mọt kêu ken két.
Thông đi pha
trà mời ông ngoại. Gương mặt nó thiếu sự tươi non hồn nhiên của tuổi thơ. Không
trách được. Đứa bé nào trong gia đình bố mẹ ly dị nhau chả thế. Nhưng thằng
Thông dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, chắt ngoại quan Nghè Múc, bố là cán bộ cao
cấp, mẹ là trí thức, ông ngoại là nhân sĩ, bà ngoại là thủ trưởng cấp cao, mà
sao mặt mũi có gì tối tăm như con nhà mò cua bắt ốc. Ông giật mình thấy cái
“gien” của bà nội nó – cô tá điền - đầy tớ; phải, chỉ một mình cái gien ấy mà
át được hết các gien “trâm anh thế phiệt” kia!
Nó có gì
giống bố nó ngày xưa?
Ông Huy không
còn nhớ gì lắm về buổi đầu gặp bố nó - thằng bé Hảo đầu gio mặt muội ở Bãi Dẻ
bên hồ. Hôm ấy cậu cử nhân luật Vũ Quang Huy vừa ở Pari về nước, quyết định tới
đồn điền trung du của cha, nghỉ ngơi ngắm cảnh. Cậu Cử thích cảnh những dải đồi
thấp, toàn dẻ la đà, những cô thôn nữ xinh đẹp má hồng răng đen, khăn mỏ quạ đi
nhặt dẻ nghiêng nón e thẹn “chào cậu Cử ạ” rồi ù té chạy khúc khích cười. Cậu
thích mặc đồ thể thao trắng, cưỡi ngựa trắng phi như bay bên những sườn đồi cỏ
xanh mướt, rồi bất thần xuất hiện bên hồ làm những cô thôn nữ đang tắm ở đấy ùa
chạy như đàn thiên nga gặp đại bàng. Cậu thích vác khẩu súng săn, đi sâu vào
rừng, lang thang tìm những con chim lông đẹp, những con chồn sóc có bộ đuôi quý
giá.
Cậu cần có
một “tiểu đồng” hầu hạ. Người ta dẫn thằng bé Hảo đến. Mặt mũi nó đáng ghét,
nhưng nó hoạt bát, thông thạo, tinh khôn.
- Bố ơi, ông
ngoại đến - Tiếng thằng Thông ngoài hành lang làm ông Huy giật mình. Hảo đặt
hai xô nước vào góc, khẽ gật đầu chào.
- Tôi đến nhờ
anh một việc – Ông Huy vụt đứng dậy với dáng điệu của một tá điền già đến văn
phòng “quan” quản lý đồn điền Trại Dẻ mà xưa ông từng trông thấy nhiều lần,
không ngờ đó lại là giờ phút “kiến tập”.
- Bác ngồi
xơi nước đã. Dạo này bác có khoẻ không - Hảo muốn tỏ ra thân tình nhưng gương
mặt khô lạnh, nụ cười gượng gạo vẫn làm cho người đối thoại cảm thấy xa cách.
Còn gì trớ
trêu hơn là phải đến nhờ vả một ông “cựu con rể” mà con gái mình đã ly dị người
ta. Ông sượng sùng lúng túng. Nhưng không có cách nào khác. Ngoài Hảo ra, không
ai có thể giúp ông việc này.
Nghe nói có
“công việc”, Hải lại bàn mở sổ tay, sẵn sàng ghi ghép, phản xạ tự nhiên, thói
quen của người mà thời gian cuộc đời trôi trong các hội nghị nhiều hơn thời
gian đời thường.
- Anh Hảo xem
thư đây – Ông Huy rút ra những chiếc phong bì lạ mắt - Bốn đứa em tôi ở nước
ngoài vừa gửi về... Thực ra tôi không muốn... Nhưng họ hối thúc. Tôi cảm thấy
năm nay đã yếu, sợ không còn dịp nào khác nữa.
Đôi mắt già
nua của ông Huy năn nỉ, y như đôi mắt trẻ con của thằng Hảo ngày xưa năn nỉ cậu
Cử Huy, cho nó được ở lại hầu hạ cậu, đừng đuổi nó về với mẹ nó. Cuộc đời
thường hay có sự hoán vị.
Hảo nhìn
những phong thư từ Oasinhtơn, Pari, Bon, Brucxen bằng ánh mắt cảnh giác, không
muốn sờ tay vào, không muốn đọc.
Giọng ông Huy
buồn rầu:
- Chú Minh ở
Mỹ, chú Trí ở Pháp, chú Tuệ ở Tây Đức, cô Thu Hằng ở Bỉ, năm nào họ cũng dắt
díu con cái về Pari, làm giỗ bố tôi ở đó, đã thành lệ.
Năm nay kỷ
niệm tròn 40 ngày mất, các em tôi quyết định làm giỗ to hơn, đúng truyền thống
nghỉ lễ dân tộc. Họ hối thúc tôi xin phép nhà nước mình, làm thế nào sang được
Pari tham dự.
- Hừ, người
Việt Nam, đẻ ở Việt Nam, sống ở Việt Na, chết ở Việt Nam, mà giỗ hàng năm lại ở
Pháp - Hảo cười mỉa mai – Linh hồn cụ Nghè làm sao vượt biển sang tận bên đấy
hưởng hương hoa của con cháu được.
- Cũng là một
cách những người xa quê hương hướng về cội nguồn, tổ tiên, dân tộc.
- Hướng về
bằng các hoạt động yêu nước chứ...
- Tất nhiên
rồi... Nhưng trong trường hợp cụ thể này, anh thông cảm cho. Với quyền hạn của
anh trong Ban tổ chức Trung ương, với quan hệ của anh với các đồng chí lãnh đạo
các cơ quan hữu trách, mong anh giúp tôi việc này...
Anh xin cho
tôi đi thời hạn một tháng. Đúng một tháng, tôi chỉ cần dự lễ kỷ niệm 40 năm
ngày mất cha tôi. Sau đó về ngay. Tôi không thiết gì cả, không háo hức gì cả.
Pari với tôi chẳng có gì xa lạ, hấp dẫn. Tôi đã ở đấy suốt tuổi thơ ấu học
trò...
- Bác là con
trưởng. Bao nhiêu năm nay bác vẫn làm giỗ cụ Nghè tại Hà Nội. Và đó mới là giỗ
chính thức. Hương hồn cụ Nghè chỉ có thể ngự trên bàn thờ người con trưởng tại
quê hương, chứ cái gọi là ngày giỗ ở Pari không có ý nghĩa gì - Hảo bác thẳng
cánh - Thật là mỉa mai, một ngày giỗ tổ tiên mà bầy con cháu chắt nội ngoại
đứng lễ, đứa khấn bằng tiếng Mỹ, đứa khấn bằng tiếng Pháp, đứa khấn bằng tiếng
Đức, đứa khấn bằng tiếng Bỉ... mà anh hồn cụ Nghè lại chỉ thông thạo nhất thứ
chữ Hán của Tầu!...
Thiết nghĩ
bác là một nhân sĩ yêu nước, một trí thức sớm đến với cách mạng. Bác có vai trò
không nhỏ trong sự nghiệp động viên tầng lớp nhân sĩ trí thức đoàn kết tham gia
công cuộc kháng chiến kiến quốc. Bác đường đường từng là thành viên đoàn chủ
tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bác phải giữ gìn, đừng lại
việc gì có hại đến cái thanh danh...
Khi nội dung
đối thoại chỉ là giao thiệp thông thường, ông Huy mù mờ, vụng về. Nhưng đụng
đến các vấn đề xã hội, chính trị, ông vụt thành người khác hẳn, mắt sáng long
lanh sau kính trắng, tư thế đĩnh đạc, đúng phong cách người từng đứng trên bục
bảo vệ Luận án triết học tại Trung tâm văn hoá lớn của thế giời, và hơn nữa, tư
thế của nhà ngoại giao bên bàn Hội đàm quốc tế trong tình thế đất nước nghìn
cân treo sợi tóc. (Ông là thành viên quan trọng trong Đoàn Ngoại giao chính phủ
lâm thời đàm phán với Pháp năm 1946).
- Hãy nhìn sự
việc bằng con mắt của lịch sử. Sự ly tán bốn phương của gia đình tôi là hậu quả
tất yếu do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Điều cốt yếu phải nhìn nhận là: cơ bản họ
đứng về phía nhân dân. Cha tôi là quan cương trực, ghét Pháp, đã xử những vụ án
nổi tiếng bênh vực công lý. Cuối cùng treo ấn từ quan, bất hợp tác với Pháp.
Chúng tôi đã có những “cải cách xã hội” trong phạm vi đồn điền Trại Dẻ. Bản
thân tôi ủng hộ cách mạng toàn bộ gia sản của mình, trong đó có 700 lượng vàng
hồi tuần lễ vàng. Các em tôi đều có xu hướng trở thành các nhà kinh doanh, nhà
khoa học, nghệ thuật thuần tuý. Ở nước ngoài, nhưng luôn hướng về Tổ quốc. Tôi
có đi gặp họ, chẳng có gì hại đến thanh danh cả...
*
* *
- Hảo, mày
dẫn tao về nhà mày chơi?
- Thưa cậu,
hôm nay trời đẹp thế này vào rừng bắn chim thú lắm cậu ạ.
- Không, chơi
mãi chán rồi. Tao muốn tìm hiểu cảnh đời những người dân quê.
- Để cậu “tả”
lên báo tiếng Tây phải không ạ.
- Có thể.
- Nhưng nhà
cháu thì có gì để “tả” đâu.
- Tao muốn
nghe mẹ Hảo kể chuyện đời mình.
- Đời mẹ cháu
thì chán lắm.
- Tao cần
biết cái “chán” ấy.
Hảo xăm xăm
đi trước. Con ngựa bách của cậu Cử thong dong bước một.
Chiếc cổng
rào tre được chống lên. Trước mắt cậu Cử là một khuôn hình phong cảnh nếp nhà
tranh, sân đất rêu, con cún vàng nằm ngủ, chum hứng nước mưa dưới gốc cau xanh.
Một người đàn
bà trẻ, bầu bĩnh, môi ăn trầu đỏ chót chạy ra:
- Chào cậu
chủ.
- Chào chị
Thản. Công việc làm ăn dạo này thế nào. Lúa má tốt chứ...
- Dạ thưa
cậu, cũng tàm tạm ạ.
- Mẹ ơi, cậu
chủ đến nghe chuyện đời mẹ, để “tả” lên báo tiếng Tây đấy...
Người đàn bà
tá điền há hốc mồm kinh ngạc. Chị đã nghe nhiều chuyện khác thường về cậu chủ
trẻ tuổi này.
Huy buộc ngựa
vào gốc cây, phá lên cười giòn giã...
*
* *
... Mười mấy
năm trước, cái gái Thản lớn lên nở nang xinh xắn.
Chỉ hiềm một
nỗi, nhà Thản quá nghèo. Ông giời chỉ biết sinh ra con người trần trụi, thả nó
lên trần gian, thế là giời xong nhiệm vụ.
Con chuột chỉ
việc giũi mồm, thế là có hang ở. Con nhện, con tằm thì có sẵn “vật liệu” làm
nhà ngay trong bụng mình, chỉ việc kéo ra mà đan thành nơi trú ngụ. Con chim
yến thì nhả rãi trong mồm ra thành tổ. Con rùa có sẵn mái nhà trên lưng.
Còn con
người, ông giời thả rông trên mặt đất, phải tự lo lấy nơi che mưa nắng. Ông
giời sinh ra con chim, đồng thời cho nó luôn bộ “quần áo” lông che thân vĩnh
cửu. Con cá có bộ “áo giáp” vẩy, lại còn trang trí đẹp, màu sắc óng ánh. Con
trâu phải trần trụi nhưng còn được “sơn” màu đen bóng, dầy cộm “che thân” cũng
đỡ.
Còn con
người, còn Thản, tệ quá đã không cho cái gì che phủ, lại con cho thân hình nuột
nà, trắng tinh như đồi tuyết phủ, thiên hạ chỉ thích ngó nhìn. Thản biết lấy gì
mà che kín nó lại được.
Thản có răng,
có mồm, nhưng lại không biết lấy gì mà ăn no bụng. Thóc gạo lấy từ đất ruộng,
muối lấy từ biển. Nhà Thản không có ruộng, không có biển.
Từ bé, Thản
luôn thấy đói. Đêm chỉ mơ ngủ thấy khoai lang chín, mà chín ngay trong đất,
cuốc lên một cái, đã thấy nó chín thơm lừng ngọt lự rồi.
Đêm đêm mẹ
con Thản nằm trên đệm rơm, phủ lá chuối khô lên người cho đỡ rét. Thản có một
chiếc váy thâm đất và một chiếc áo nâu. Bộ đồ từ lâu, rách đâu vá đấy, năm này
qua năm khác, mụn nọ chồng lên mụn kia, và cứ tiếp tục chồng lên nữa, nên đã
biến thành bộ đồ vĩnh cửu. Hai mẹ con cười hì hì nhìn nhan đắc chí vì dẫn được
câu ngạn ngữ “Tiền lĩnh váy chị không bằng tiền chỉ váy tôi”.
Một tuần Thản
giặt quần áo một lần. Giặt vào đêm vì phải cởi truồng ngồi ngoài cầu ao. Đêm
ngủ và cả ngày sau nữa, đóng cửa chặt ngồi trong nhà, váy áo khô.
Thản đang
tuổi dậy thì, tóc xanh mướt phủ như mành sau lưng, dài chấm gót. Những hôm ấy,
cô quấn tóc quanh người, cũng che được nửa thân.
Thản thích
ngắm thân hình mình, vì nó đẹp quá. Nắng hanh ngoài sân, qua khke lóêp, rọi
vào, đúng chỗ Thản nằm, tấm thân trần sáng trưng lên như gương, Thản thấy mơ
màng ngây ngất.
Sao không? Ít
ra giời nặn nên cái thân thể nuột nà này là để làm gì chứ? Nếu không thì để nó
mốc thếch xù xì đen kịt như da trâu khỏi uống phí.
Thản nghèo
quá, chẳng là chủ nhân cái gì, nhưng là chủ nhân một thân hình đẹp với nước da
nõn nà.
Bụng thèm ăn,
thiếu gạo đành chịu nhịn. Nhưng thèm yêu còn hơn cả thèm ăn, lại sẵn thịt da
ngọc ngà này, thì tội gì phải nhịn.
Tháng giêng
làng nào chả có hội. Làng Trúc bên kia có hội chen đêm. Thản nắm cơm đội nón mê
băng đồng, đi hội từ ngang chiều. Nắng tháng giêng reo như bọt nước tan. Suốt
cả năm gái trai làng Trúc mong đợi hội này. Suốt chiều người ta rập rình ở các
ngõ, để chờ tắt nắng một cái là lao ra đường.
Thản thập thò
ngoài cổng làng. Khi nghe tiếng hò reo và ánh pháo bông bay lên, cô chạy tất
tả. Đường đông nườm nượp, quần áo đẹp ngợp mắt. Tiếng cười reo vỡ trời, bất kể
ai với ai, cứ trông thấy là xô đẩy chen nhau đùa nghịch.
Hội có từ
thuở lập làng. Hội càng vui thì làng càng hoà cốc phong đăng. Trăng tháng giêng
mở tỏ, không ai nhìn rõ mặt ai, chẳng còn ngượng ngùng gượng gạo gì.
Ngày thường
nam nữ “thụ thụ bất thân” nhưng đêm nay “vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm” con gái
thành quỷ sứ.
Thản đã cởi
truồng cả ngày để ướp nước hương nhu, hoa nhài vào bộ váy “đẹp”. Đêm, váy đụp
cũng giống váy lành.
Thản xán vào
chỗ đám đông. Một bọn con trai ào qua không chen. Thản chột dạ, hay chúng thấy
mình váy rách.
Thản lại xán
đến một đám khác, đợi một cánh tay con giai đẩy mình, để Thản sẽ đẩy lại, và xô
nhau cuốn tròn vào đám đông nô cười. Nhưng bọn này như không nhìn thấy Thản.
Chúng mê mải đùa nhau, tay con trai sờ vào lườn, thục vào trong lần áo con gái,
bọn con gái ré lên, đấm thùm thụp bọn con giai.
Thản vẫn đứng
bơ vơ. Một thắng bé loắt choắt từ xa chạy lại đấm lưng. Thản quay lại, nó chỉ
đứng đến cổ, mồm chuột chù vêu vao, mắt
cụp xuống ngượng ngùng.
Thản chán
quá, bỏ đi.
Có bọn rất
đông từ đầu đường xô lại cùng tiếng cười phá trời. Nhiều đứa con gái đã bị bựt
tung cả cúc áo, đứt cả giải yếm, vú vê thỗn thện kêu thét chạy trốn. Thản xô
vào chặn ngang cho chúng thoát. Bọn con giai đang đà xô phải Thản. Thản nhớ rất
rõ cái phút giây kỳ diệu bàn tay người con giai đầu tiên đẩy vào ngực cô, xiêu
đi, suýt ngã. Tiếng cười của Thản bật ra giòn tan. Tiếng cười đầu tiên của cô
trong đêm hội sau bao giây phút đợi chờ. Từ đây Thản chỉ còn cười không ngớt,
cười ré, cười sặc sụa, lăn xả vào bất cứ ai mà chẳng còn ngượng ngập gì.
Bọn con giai
quấn tròn quanh Thản, nhưng cô khoẻ quá, ẩy hết đứa này đến đứa khác văng ra,
cười đến đứt hơi.
Từng bọn “bạn
chen” trôi qua trên đường như những đợt sóng. Giờ này trong đình làng đang có
cuộc tế thần. Hết canh ba mới “lễ tất”. Suốt thời gian tế con trai con gái tha
hồ chen nhau sờ soạng nhau. Có thế mới mưa thuận gió hoà, lúa má chẳng xâu xia,
người không dịch bệnh, quan ôn chẳng đến làng...
Có một người
con trai cao lớn đang đi lại. Thản vội xông ra cản đường. Anh có vẻ ngạc nhiên.
Thản lấy vai ẩy tha hồ mà không làm anh suy xuyển. Chẳng nói chẳng rằng, anh
đưa cánh tay lực lưỡng chắc như gọng kìm, kéo một cái, Thản ngã sấp vào ngực
anh. Anh quắp Thản gọn như con đại bàng cắp nàng công chúa trong chuyện Thạch
Sanh.
Họ đang đứng
bên hồ. Mây trên đầu trôi vùn vụt như ăn cướp. Mây giống như những đợt sống gái
trai đang chạy trên đường.
Một bọn quỷ
sứ đến. Chúng ẩy tung cả anh lẫn Thản xuống hồ. Hai người chết ngụp. Chúng
khoái chí cười vang.
Anh lôi được
Thản lên bờ, quần áo dính bết vào người. Anh cởi ra vắt nước. Thản thấy bắp vai
anh vồng lên như cuộn chão.
- Bọn khỉ gió
ở đâu ra ấy.
- Ướt hết anh
nhỉ.
Chợt anh nhìn
trộm chỗ khuy áo tuột của Thản, đúng lúc có ánh trăng dọi vào sáng loé lên.
Tự dưng hai
người “quện” nhau.
Ngoài đình
cuộc tế thần đã vào tuần rượu thứ ba. Hương trầm hết tuần thứ mười, nến thắp
tuần thứ bảy. Các ông chủ tế, bồi tế đã mỏi khuỵu lưng.
Tiếng trống
thu không canh ba trên vọng lâu đã thong thả điểm những tiếng đầu. Dứt nhịp
trống này là “lễ tất” hội chen chấm dứt.
Ngoài nhà
“giải vũ” bọn trương tuần quản xã đã dốc ngược các chai rượu tu giọt cuối cùng,
xé lá chuối gói lấy phần thịt mỡ xương xẩu ăn thừa. Mỗi đứa một chiếc roi song
lăm lăm, chúng có nhiệm vụ khi tiếng trống thu không cuối cùng vừa dứt, là xông
ra đường. Thời hạn cho trai gái nô đùa nhau đã hết. Lúc ấy mà còn sờ cú sờ lườn
nhau sẽ làm hỏng hết cả phép nhiệm màu của lễ hội chen. Hơn thế nữa, như thuốc
dùng quá liều công phạt, cả làng sẽ bị chết oan. Sẽ bị vỡ làng, chồng nào vợ
nấy bị gậy mà đi ăn mày. Hoặc khủng khiếp hơn, Quan ôn sẽ về bắt từ đứa bé lên
ba đến ông già đầu bạc.
Cho nên sứ
mệnh của bọn quản xã trong tuần là cực kỳ quan trọng. Cứ là quất sướng tay,
đuổi như đuổi vịt. Đứa nào còn nấn ná, chưa chạy kịp, vỡ đầu xẻ tai mặc kệ. Vỡ
đầu xẻ tai mình mày, còn hơn chết cả dân làng.
Thản và anh
biết thân biết phận cắm đầu chạy về bãi tha ma sau chùa. Mồ mả lúp xúp dưới
bóng cây rậm rạp. Sương tháng giêng ẩm ướt, khí phốt pho từ các xác người đang
phân huỷ dưới lòng đất, bay lên cháy xanh lét, lập loè chập chờn vướng vít vào
các cành lá. Dào ôi, phốt pho phốt phiếc đâu chả biết, hồn người chết đang dạo
trong đêm đấy. Tiếng lá, gió xì xào là tiếng hồn ma nói chuyện. Eo ơi, sợ quá,
sao chúng mình lại dắt nhau đến đây nhỉ?
Đây là lãnh thổ của ma. Cả mặt đất mênh mông của người
sống không chỗ nào cho ta yêu nhau một cái hay sao mà phải đến nhờ lãnh đại của
người chết. Nhưng mà đúng thế đấy. Chỉ có nơi đầy hồn ma này mới cho phép ta
được làm cái việc thiêng liêng ấy. Những hồn ma mắt sáng xanh lè bay quanh ta
nhưng không tò mò dòm dỏ “công việc” của ta. Hồn ma thông minh hiểu cái việc ta
làm là để tạo nên sự sống của trái đất này. Quan trọng lắm, vĩ đại lắm. Cái
việc quyết định sự tồn tại của giống nòi nhưng lại phải làm dấu diếm...
Mùi hương trầm từ trong chùa toả ra tận đây. Nhà Bụt ở
sát nách nhà mà. Hàng xóm với nhau. Tồn tại song song, chả bên nào loại trừ
được bên nào.
Ánh sáng xanh lét của ma soi đôi vai trần trắng mờ của
Thản. Đoi chân ngồn ngộn lún trong cỏ rồi như trăng chìm trong mây. Thản chịu
sức nặng của cả trái đất đè lên người.
Khi tiếng trống vọng lâu ngưng bặt, cả anh và Thản sực
tỉnh kinh hãi. Ngoài đường tiếng bọn trương tuần quát lác vang trời. Thản và
anh cắm đầu cắm cổ chạy mỗi người một ngả. Tiếng roi song vút trong không gian
nghe veo véo rợn người. Khối cô vịt bầu lạch bạch chạy không kịp roi cứ rán vào
lưng. Bọn trương tuần cười khoái trá. Ai bảo chúng mày, sướng lắm khổ nhiều...
Thản đã vọt ra được phía ngoài cổng làng, dừng lại để
thở. Đôi vú rắn như ổi xanh bị bóp, giờ còn đau cứng... Anh ấy tên là gì nhỉ?
Chả biết, vội quá. Ở đâu cũng chả biết. Khổ quá, chưa cả kịp “ấy” xong thì
tiếng trống cuối đã điểm...
*
* *
Thản kinh sợ thấy mình có mang.
Sao có thể dễ thế nhỉ. Tưởng phải lấy chồng, ăn ở âu yếm
đồng thời với cãi chửi nhau, đập vỡ hết bát trong chạn, khóc xưng mắt vì mẹ
chồng ác nghiệt, phải thế nào thế nào mới có mang được chứ.
Thản phải nới cạp váy. Thân thể người ta ăn “bẩy bồ cám
tám bồ bèo”, bèo lớn khó khăn, vậy mà mới chỉ ôm ấp truyền hơi truyền sức cho
nhau vội vàng tý chút, bụng đã nở ra như bột từng tuần từng tháng. Chẳng còn
dấu ai được nữa rồi.
Trời ơi, biết làm sao bây giờ.
Tiếng đồn con Thản hoang thai bùng nổ ngang như tin có
động đất, tin trời sập, sắp tận thế, luân lý đạo đức sắp bị tuyệt diệt.
Ngoài đình đã có phiên họp thứ nhất của các chức sắc, các
cụ thượng râu nhất râu nhì bàn về sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch
sử cái làng có tên là Văn Đàn và từng được vua ban bốn chữ “Mỹ tục khả phong”
này.
Chiểu luật xưa, kẻ hoang thai phải lột truồng, đeo phèng
phèng, củ dứa, đi bêu khắp làng. Nhưng các cụ thấy rằng thời “văn minh” này làm
thế chẳng lợi lộc gì. Bắt khoán phạt vạ vài chai rượu, một thúng gạo sôi, một
thủ lợn, đôi gà sống thiến để các cụ nhắm là hơn. Thay vào hình phạt bêu dong,
chỉ nên gọi tội phạm ra đình, nọc ra lột quần đánh cho vài roi vào đít.
Các cụ chờ đợi. Còn nửa tháng nữa đến ngày thi hành nghị
quyết. Ngồi xé thịt gà nhắm rượu nhìn một con bé cởi truồng, đít to trắng ngần
bị đánh đòn thì còn gì thú bằng.
Hôm ấy, có cuộc họp giữa đình, vẫn là bàn về chủ đề
“thuần phong mỹ tục”. Lạ quá, bỗng dưng cụ thượng nhất bụng toàn chữ thánh
hiền, chữ thánh hiền lâu ngày ôi thiu không tiêu hay sao mà phải tìm cách ộc ra
đằng mồm.
Mặt tái ngắt, cụ nôn thốc nôn tháo đầy chiếc chiếu hoa
cạp điều.
Chữ thánh hiền còn tìm một cửa nữa, người có học gọi là
hậu môn, dân quê gọi là lỗ đít để trào ra ồng ộc. Cụ cúi gập người lả đi. Cả
hội nghị “thuần phong mỹ tục” hoảng sợ bỏ của chạy lấy người.
Cụ thượng nhất là người đầu tiên mắc dịch tả trong làng.
Dịch tả, nói là tại vi trùng tả. Vi trùng là cái gì? Vi
trùng bé tý tẹo làm gì vật ngã được người to lớn thế? Vô lý.
Chỉ tại quan Ôn. Đích thị quan Ôn đến trừng phạt. Ai bảo
cái làng Văn Đàn này độc ác, đạo đức giả cho lắm vào...
Khốn khổ, bây giờ mới là chuyện sụt đất, sập trời tận thế
thật. Mà có nhẽ tại cái con đĩ hoang thai. Phạm đến thuần phong mỹ tục, nên cả
làng bị trừng trị. Phải tìm nó đem giết ngay.
Nghe tin ấy, nửa đêm Thản xé rào chân tre làng bỏ trốn.
Đi, đi, chả biết đi đâu. Nhưng chân cứ bước. Cái thai đến
ngày sinh nặng trĩu trong bụng. Nằm cầu ngủ quán, kiếm cua lươn ốc nhái dọc
đường mà ăn. Một buổi kia, Thản tới xứ đồi, đất đỏ au, dẻ tốt la đà. Trong cái
lều ven đường tải lá dẻ khô, đếm ấy Thản đau đơn quằn quại, chân tay cào đất,
mồm cạp vào cọc lều, gào thét.
Thằng bé hảo ra đời.
Thản ở lại xứ đồi, thành tá điền đồn điền quan Án từ hôm
ấy...
- Hảo, mày đi gọi tất cả bọn trẻ con trong xóm chiều mai
đến đây.
- Làm gì hả cậu. Chúng nó bận lắm. Còn phải chăn trâu hái
củi.
- Bảo tao cho quà. Quà Hà Nội mới mang về.
Chiều hôm sau trên sân nhà khách đồn điền có cảnh tượng
lạ. Hơn ba mươi đứa trẻ con quần áo túm tó, ghét đầy cổ đầy tai, tóc xù tổ quạ,
nghếch nga nghếch ngác kéo đến.
Hảo bắt chúng xếp hàng bốn.
Lão quản lý đồn điền tóc cánh phượng chải briăng-tin bóng
mượt, kính gọng vàng, béo múp míp, nhăn nhó theo cậu cử Huy ra hiên.
Lão kinh hoàng nghe lệnh cậu chủ ban ra rông rổng, nào là
may cho mỗi đứa trẻ này một bộ quần áo (ôi lấy đâu ra, một núi vải); mở lớp dậy
quốc ngữ cho chúng (trời, chúng có chịu đi học không?); lên tỉnh đón y tá về
chủng đậu hàng loạt... (bọn này quật đầu gốc tre cũng chẳng chết đâu mà sợ).
Lão quản lý ù cả đầu. Cái cậu chủ ngông nghênh, học đòi
văn hoá châu Âu rởm đời này, đang phá tan cơ nghiệp cụ Án để lại đây.
Lão càng lo lắng hơn khi thấy cậu Cử ngày càng “bầy trò”.
Cái con mẹ Thản ngu dốt còn biết gì nữa, mà cậu gửi lên bệnh viện tỉnh học
nghề, về làm bà “xa phăm” đỡ đẻ. Thật là hết khôn dồn dại, văn hay chữ tốt để
đâu, mà lại đi nghĩ đến những chuyện “nhảm nhí” “bẩn thỉu” của đàn bà. Nhưng
thôi chuyện ấy dù sao cũng chỉ buồn cười chứ không nguy hại chết người bằng
chuyện cậu tập hợp tá điền lại để họ bầu một ông “đại diện”. Đại diện có nhiệm
vụ thay mặt mọi người đề đạt yêu cầu này yêu cầu kia, với ông quản lý. Ví dụ
năm nay khu này khu kia mất mùa phải giảm tô thế nào đó.
Quản lý, hoặc thậm chí cả cụ Án nữa phải thường xuyên gặp
gỡ vị đại diện để tìm hiểu dân tình trong đồn điền mình.
Cũng trong hội nghị ấy, cậu Cử tuyên bố mức giảm tô gồng
loạt 10%. Thật khủng khiếp. Bọn dân đen thì chúng chỉ muốn phá nát cái đồn điền
này, mỗi đứa chiếm vài sào ruộng, hàng năm chẳng phải nộp tô cho ai. Chúng
chẳng muốn có ông chủ nào trên đầu.
Nhưng ai, ai đã bỏ tiền của ra khai phá miền đất lau sậy
hoang vu này. Ai đủ uy quyền, sức lực để làm cái việc ấy. Phi cụ Án ra thì ai
làm được. Đất hoang bao đời, chỉ có cóc nhái, rắn rết làm chủ, trí lự cụ Án đã
biến nó thành bờ xôi ruộng mật. Bọn dân nghèo thước đất cắm dùi không có, đói
rét lang thang đầu đường xó chợ, sức rộng vai dài nhưng cháo không có mà húp
trôi dạt đến đây như bèo tấm tụ lại, được làm tá điền, có ruộng cấy, có cơm ăn
áo mặc, sướng quá, bằng ngủ mơ được vàng còn gì nữa.
Ở dưới quê xuôi thì suốt đời cày thuê cuốc mướn, chui rúc
lều vịt, nghèo đến trai không lấy được vợ, gái không lấy được chồng; quản xã
trương tuần bắt nạt, lệ làng nghiệt ngã. Đến đây vùng đất mới, rừng rú, không
chùa chiền đình miếu, không khuôn phép lễ nghi, trai gái cứ đầu mày cuối mắt
thích nhau là ghép thành đôi, về ở với nhau nên vợ nên chồng. Rừng lắm gỗ tre,
vào mà chặt. Núi lắm đất lắm đồi, cứ chăng dây cắm cọc mà làm nhà. Ruộng thì
đấy, đến xin với cụ Án muốn cấy mấy mẫu mấy sào thì cấy. Hỏi còn ai sướng hơn
dân Trại Dẻ.
Công đức cụ Án như thế mà chúng đâu có ơn. Phải gánh thóc
tô đến đổ khi là chúng tiếc đứt mắt ra, chúng hằn học, chỉ muốn ăn cả, chỉ muốn
làm loạn.
Bây giờ lại được cái cậu “quý tử” trưởng nam cụ Án về đây
nối giáo cho giặc. Giảm tô 10%, ối giời ôi, chết cụ Án rồi, chết cả ta nữa
rồi... Tên quản lý gần phát điên. Đồn điền sắp tan rồi.
Lẽ đời, chúng nó có nghèo, có ngu thì mới “cai trị” được
chúng. Dạy chữ cho con cái chúng để sau này bọn nhóc ấy lớn lên sẽ làm loạn à.
Cái thằng có chữ trong đầu, cái thằng khôn, còn ai bảo được nó, lừa được nó. Nó
sẽ chẳng an phận nai lưng ra kéo cày cho ai hưởng đâu.
Không. Không mở lớp mở liếc gì hết. Cứ để bọn trẻ con ấy
ngu dốt, lêu lổng mò cua bắt ốc, bẫy cò bẫy rắn ngoài đồng.
Và cái con mẹ Thản nữa... Bây giờ gọi là bà xa phăm cơ
đấy, đỡ đẻ lại mặc áo choàng trắng, rửa tay xà phòng, cắt rốn bằng dao kéo sáng
choang, luộc tẩy trùng cẩn thận. Mẹ kiếp, cái bọn nông phu buộc lạt gấu váy,
lội nước ngang lưng thì vi trùng nào làm gì được nó mà phải tẩy trùng tẩy chiếc
vẽ sự. Mí lại nếu để chúng đẻ đứa nào nuôi được đứa nấy, thì để đâu cho hết
người. Một mẹ, mười đứa con trai lộc ngộc lại có chữ khôn ngoan, ôi, thì chúng
còn biết sợ ai nữa. Chúng sẽ làm loạn. Phải để chúng suốt đời bận rộn vì đẻ, ốm
đau, hậu sản sài mòn vì đẻ. Sòn sòn ba năm đôi, nhưng lại cứ để chết như sung
rụng. “Mười phần chết bẩy còn ba, đến khi vua ra chết hai còn một” cơ mà. Thế
thì mới cai trị được chúng chứ...
Lão quản lý đêm nằm gối đầu lên tay vợ hai, chân gác lên
đùi vợ ba mà lo. Cứ đà này, bọn tá điền sẽ cưỡi lên đầu lên cổ ta. Cậu Cử đang
nống chúng nó lên. Cái dân bỏ quê quán tha phương cầu thực, trên răng dưới dái,
vốn đã là liều rồi!
Cái cụ Án này về già cũng nhu nhược quá, lại đại lần nữa.
Lại nhân đức dở hơi nữa. Khi tiết hão huyền, đạo lý gàn quải. Bao nhiêu năm chả
ló mặt lên đây. Tất cả khoán trắng cho ta. Một tay ta đứng mũi chịu sào cai
quản đồn điền, lo liệu làm ăn, gửi tiền về cho cái gia đình quen tiêu tiền như
nước. Cái ông quan Nam triều đỗ đạt danh vọng lừng lẫy mà suốt đời dẫm chân tại
chỗ, không được thăng chức.
May mà cụ Án vớ được ta. Không có ta thì cái nhà quan này
đi ăn mày như chơi. Mẹ kiếp, sao cái thân ta khổ thế này, trớ trêu thế này, oái
oăm thế này. Làm như trâu như chó đem tiền của về cho hộ mà họ đâu có ơn. Họ
còn phá. Cụ Án thì thỉnh thoảng lại lên mặt dạy đời, ca bài ca nhân đức, đạo lý
làm trọng. Đạo lý cái cứt, nhân đức con tườu. Đạo lý thì cụ có ăn cơm rau muống
được không? Hay cụ cứ phải sâm nhung quế phụ. Cụ bắt tôi phải “thương người”,
nhưng cụ cứ phải ăn gà dò gần hạt sen. Các con cụ cứ phải du học ở Pari...
Rút cục chỉ khổ cái thằng này. Vừa phải “thương người”
như cụ dậy, vừa phải “thương cụ” tức là gửi tiền về cho cụ.
Bao oán hận ngút trời của đám tá điền trút lên đầu ta.
Chỉ thiếu mức chúng muốn phanh thây xé xác ta ra thôi.
Bây giờ lại đến lượt cái cậu quý tử trưởng nam này về đây
hành ta nữa. Trời ơi, cái kế hoạch “dẫn thuỷ nhập điền” viển vông của cậu đến
bố tôi cũng không thực hiện được. Cậu vẽ ra giấy hàng trăm con mương cái cống
chứ hàng ngàn cũng được. Vài nét bút là thành. Còn cầm cuốc xẻng ra đào mới khó
chứ.
Sức đâu mà làm cái hệ thống “dẫn thuỷ nhập điền” như bản
vẽ của cậu. Cậu bảo để tá điền họ làm vì đó là quyền lợi của họ. Hì hì... Bọn
chúng ý à... Hôm nay hãy vào rừng kiếm được gánh củi nào, bắt được con thỏ con
chồn nào, về ăn ngay tức khắc, lợi trước mắt cái đã. Còn đội nắng chày chày đào
đắp hàng tháng giời, mà chẳng có cái gì đút vào cái túi thì hẵng khoan!
Nước cạn thì chúng tát, hạn quá thì bỏ khô, đói thì dắt
nhau vào rừng đào củ mài về ăn chứ lại nghĩ được chuyện hợp sức làm “dẫn thuỷ
nhập điền” như cậu nói thì có hoạ là “chó có váy lĩnh”.
Lão quản lý ngờ rằng cái thằng Hảo lỏi con, già trước
tuổi, khôn ranh phát sợ, đã nói hết chuyện ở cái đồn điền này cho cậu Cử biết.
Dân tình oan thán lão ra sao, lão “tham lam độc ác” thế nào... Chính nó dắt cậu
Cử đến nhà các tá điền chuyện trò theo tinh thần “bình đẳng, tương thân tương
ái”.
Cái thằng Hảo đã được cậu Cử dậy cho biết chữ, biết phép
cộng trừ nhân chia, rồi lại cho đọc sách báo định đào tạo nó thành ông quản lý
tương lai thay ta chắc.
Thời thế đáng lo quá. Trong rừng cách đây chẳng bao xa,
có căn cứ của những người muốn làm cách mạng, đảo lộn hết cả cái đời này. Chúng
xúi dục là điền dây dưa tô tức, gây chuyện rắc rối.
Mà hình như chính thằng Hảo lỏi con ấy là liên lạc cho
chúng, mang tin để chúng quần tam tụ ngũ, hoặc lảng trốn khi có động... Thằng
Hảo... Thật không phải chuyện đùa. Phải canh chừng, cảnh giác nó...
*
* *
Bầu trời cao nguyên xanh ngắt và... hoang dại. Bầu trời
trên đầu thì đâu chả là mây và nền xanh vô tận, nhưng sao ở đây cứ thấy có gì
hoang dại.
Sau cơn mưa, những tàng cao su ướt đẫm. Cỏ tranh xanh
mướt hai bên đường đất đỏ. Những cô gái Ê đê, ngoại ô Ban Mê, Sài Gòn, váy đen
truyền thống, đeo gùi vào thị xã. Những thằng bé tóc xoăn, mắt to thô lố, đội
mũ lính nguỵ, tay xách lồng chim tung tăng. Rồi đến những cặp vợ chồng, chồng
đeo ná ngậm ống vố nhả khói mù mịt, vợ địu con đeo gùi, con chó săn chạy lăng
xăng dẫn đường.vvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvvv
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét