Miền đất đau thương
Trích chương 3 tiểu thuyết
“Núi lửa”, tiểu thuyết phong cách huyền thoại của Nguyễn Phan Hách
... Sương hoàng hôn tím thẫm xà thấp trên
sân trại. Đống lửa bập bùng tỏa hơi ấm. Mấy chục người ngồi vây quanh, trầm
ngâm rít thuốc qua tẩu ngà voi bịt bạc.
Người kể “Khan” dân gian là một ông già
đội mũ vuông góc, áo da hươu viền lông đúng kiểu người Kakhan thuở xưa. Gương
mặt chập chờn ánh sáng quá khứ xa xăm, ánh mắt như nhìn vào cõi vô định . Ông
là người kể “Khan” duy nhất còn sót lại của vùng thảo nguyên. Trong đầu ông là
một pho sử đầy máu lửa ,nước mắt của nòi giống Kakhan,miền đất đau thương này.
Những tờ báo, cuốn phim, chương trình truyền hình vẫn không thay thế được giọng
kề “Khan” của ông...
… Thuở ấy, ở cuối chân trời có núi Lôi Sơn cao
chất ngất,dưới chân là thảo nguyên bao la, cỏ biếc bạt ngàn, chim bay mỏi cánh,
ngựa chạy mỏi chân. Ngựa Tuyết, ngựa Hồng, ngựa Ô như hoa các màu. Bướm thảo
nguyên dập dờn xốn xang ánh nắng, hoa thảo nguyên chen với cỏ xanh. Mùi Oải
hương thoảng bay trong gió...
Trong những ngôi nhà lều trại sặc sỡ,
những gia đình Kakhan ba thế hệ vui sống. Người chồng ngày ngày đi chăn thả
ngựa, người vợ vắt sữa, chắt khô thành thức ăn để dành. Đêm đông trong lều ấm,
mùi khói phân ngựa khô tỏa sực, ông già nâng chén trà San Tuyết hái từ chân núi
Lôi Sơn… Cuộc sống thảo nguyên êm đềm. Trên bãi cỏ, người cha dạy con trai cưỡi ngựa; trong lều, người mẹ dạy con gái
khâu may những bộ da hươu da nai... thành áo mũ.
Những đám cưới, người cưỡi ngựa đi phù
dâu, phù rể rợp một vùng. Váy áo xòe tung như hoa rắc. Rượu mật ong rót tràn
như suối. Mùi hương trầm lấy tự trong rừng Lôi Sơn nghi ngút. Cô dâu, chú rể
cúi lễ đất trời, và trao nhau chén rượu hợp cẩn chắt từ mật những bông hoa.
Đứa trẻ trong lều oa oa mới sinh được tắm
bằng sữa ngựa. Cô dâu về nhà chồng đem của hồi môn bằng một con lạc đà chất đầy
chăm nệm. Chàng rể tặng bố vợ con dao khảm bạc…
Mùa đông tuyết rơi trắng xóa phủ đỉnh Lôi
Sơn, núi như một cô gái chùm chiếc khăn voan trắng muốt. Mùa hè suối reo róc rách,
những chàng trai cô gái ra đây bơi lội nô đùa. Nhiều con suối hợp thành sông.
Con sông mải miết trôi về đâu, nước xanh đi mãi không bao giờ trở lại. Chỉ trở
lại những con cá Hồi vượt thác ghềnh từ biển về đẻ trứng. Những con cá Hồi
chung thủy nhất ,không bao giờ quên dòng suối quê hương.
Núi Lôi Sơn cao lắm, ở tít lưng trời, hình
như chưa ai leo được lên, nghe đồn trên đó có những ông tiên ngồi bàn soạn, bày
đặt mọi chuyện dưới thế gian, chi tiết đến mức ai lấy ai làm vợ làm chồng đều
do những cuộc họp bàn ấy cả.
Cộc sống đang yên lành thế mà rồi bỗng một hôm có biến. Đầu tiên là
lòng đất sôi ùng ục. Đất đau bụng dữ dội, lăn lộn, quằn quại. Đất nhao lên, lộn
xuống. Mặt thảo nguyên nổi sóng nhấp nhô. Bao nhiêu lều trại, làng mạc, cửa nhà
đổ vỡ. Mọi người chạy lao ra bãi cỏ. Những em bé bố mẹ đi vắng, ở nhà một mình,
bị chết kẹp dưới mái nhà. Những con ngựa sợ hãi phá đàn, chạy túa khắp thảo
nguyên. Những con suối xuôi dòng bị bẻ gẫy dập, nhô lên đứt khúc, nước tràn
lênh láng.
Thảm họa đầu diễn ra nhanh chóng, chưa ai
kịp hoàn hồn, thì lại tiếp thảm họa thứ hai. Núi Lôi Sơn đùng đùng nổi giận,
gầm lên ùng ục trong cổ họng, rồi phun khói bụi . Lòng núi Lôi Sơn chứa nhiều
khói hơn cả một trời mây giông, cuồn cuộn, ngùn ngụt từng đụn, từng đụn , bay
đi, rơi xuống đất. Đến một lúc dầy đặc quá, chất chồng lên nhau, không rơi được
nữa và cứ thế giãn nở. Không gian vũ trụ là mênh mông, nhưng có nguy cơ khói
bụi Lôi Sơn sẽ chiếm lĩnh tất cả, không còn kẽ hở cho không khí thở. Những
người dân thảo nguyên ho sặc sụa. Bụi lấp đầy phổi họ. Bụi đóng đặc trong mũi,
mồm, không há ra được . Họ ngã ngất vì nghẹt thở, mắt mở trừng trừng, tay móc
khói bụi từ trong họng.
Thần núi Lôi Sơn vẫn hầm hừ không dứt. Hay
các ông tiên trên đấy giận gì con người. Con người có dám làm gì các ông ấy
đâu. Các ông ấy bảo ai lấy ai làm vợ làm chồng ,mọi người đều theo cả, dù chênh lệch như đũa so le, oái oăm trớ trêu hết
mức.
Thần núi Lôi Sơn tuôn hết khói bụi rồi thì
bắt đầu khạc lửa. Đầu tiên là một tiếng nổ rung trời, hất tung đỉnh núi đi xa
vài dặm. Lửa từ núi bắn ra cuồn cuộn chảy tràn thành dòng chan chứa xuống thảo
nguyên. Lửa đặc quánh như cháo, đỏ rực, vận chuyển cuồn cuộn với sức đùn của
quả bơm khổng lồ hình cầu là trái đất. Chim chóc đang bay trên trời cháy sạch
lông khét lẹt trong tích tắc và rơi xuống. Lửa đặc dìm ngập từng đàn ngựa, thui
chín thành than ,không còn vết tích xương da. Những làng dân Kakhan đang móc
họng bới khói thì lửa đặc tràn đến. Thoạt tiên mỡ người cháy xèo xèo thơm nức,
rất nhanh chuyển sang mùi khét lẹt, và cũng rất nhanh không còn mùi gì vì đã hư
vô. Tiếng vợ khóc gọi chồng tuyệt vọng. Tiếng mẹ nghẹn ngào gọi con. Tiếng trẻ
ré lên kinh hoàng. Cả thảo nguyên vang tiếng người đau đớn...
Ông già đang đứng trước bậc cửa thềm nhà.
Dòng sông lửa từ xa trườn đến. Mắt ông trân trân. Dòng sông không nói. Ông và
dòng sông lửa đối mặt nhau. Sông di chuyển chầm chậm, còn ông già thì không lùi. Dòng sông lừ lừ. Ồng trừng
mắt nhìn nó và hỏi: “Mi là ai. Ta làm gì mi, mà mi đến nhà ta”.
Dòng sông vẫn không nói, vệt lửa nhỏ bé
đầu tiên bắn ra lon ton, đến đốt xèo xèo chân ông. Thịt cháy nhanh, xương cháy
chậm nên vẫn còn hình hài. Nhưng ông già không ngã. Ông đứng kẹp giữa hai cửa
gỗ, mắt mở trừng trừng. Phần trên của cơ
thể vẫn còn, chỉ có đôi chân đã cháy hết
thịt, và ông đứng trên các khúc xương...
Ở một ngôi nhà khác, người đàn bà leo lên
xà nhà. Một dòng lửa đặc nhỏ bé len lỏi lanh chanh đi trước ,giống như dòng
nước về chỗ trũng. Vì nhỏ bé nên nó bị
bờ đá chặn lại. Nhưng sức nóng của nó phả vào cũng đủ làm tan vụn hết áo quần
người đàn bà. Người đàn bà thành trần truồng, da thịt hồng lên trong giây lát,
rồi chuyển sang tái chín...
Trên bãi cỏ, một đoàn các cô gái chạy quấn
vào nhau .Những tia lửa đặc như mũi tên lau tau lượn vòng địa hình theo chân. Các cô nhanh hơn leo lên
được mô đất cao. Dòng lửa còn bé, nên không đủ sức leo lên. Nó đành phải dừng
lại chờ đợi bạn nó, lớn hơn, to hơn. Nó quyết không tha các cô gái. Các cô như
các nàng tiên, nó không cần biết. Vô cảm, dửng dưng. Khi các bạn nó đến tiếp sức,
nhập làm một, nó dâng lên từ từ đo chiều cao các cô gái, bắt đầu đo từ chân lên
đùi, qua chỗ đẹp nhất của người con gái, rồi lên vú, lên cổ. Nó vuốt mái tóc
các cô gái thành khói, và toàn bộ thân hình các cô cũng thành một làn hơi mỏng
bay lên …
... Những người dân Kakhan sống sót trong
trận núi lửa phun trào dung nham ngày ấy tụ tập nhau ở vùng núi Đá Đen an toàn
cách Lôi Sơn cả trăm dặm. Quê hương ơi là quê hương. Núi sông ơi là núi sông.
Thảo nguyên ơi là thảo nguyên. Những người về đây, còn vợ mất chồng, còn con
mất cha, tất cả tan tác và cháy xém thể xác, tâm hồn. Họ bới đất lấy hạt cỏ,
cậy vỏ cây nhấm nháp, hái quả rừng, bắt chuột núi... sống qua ngày, và nhìn về
Lôi Sơn khóc lóc chờ cho người tan thành nước mắt. Lúc bấy giờ có một chàng
trai mạnh mẽ tên là Phaxia đứng lên kêu gọi mọi người.
- Chúng ta đã chạy được đến đây, lẽ nào chịu chết . Ta
phải sống, phải vượt dải Đá Đen hiểm trở này tìm về phương Nam. Phương Bắc là
Lôi Sơn, nơi thần núi đã trừng phạt chúng ta vì những tội lỗi tổ tông cùng với
tội lỗi ngày thường do chính chúng ta gây ra. Không thể về nơi ấy nữa. Ta hận
miền đất ấy. Chỉ có phương Nam là Đất Hứa, hy vọng. Ta phải chiếm lĩnh lấy. Mặt
đất mênh mông là của chung loài người. Chẳng của riêng ai, ta có phần ở tất cả
những nơi nào là mặt đất, nếu ta nhanh chân đến được đó.
Phaxia băng mình đi trước. Cả đoàn người rầm rập bước
theo. Ròng rã cả tuần, họ leo qua các mỏm núi, suối sâu, vực thẳm, chân nứt
toác máu tươi, mặt chằng chịt vết xước gai rừng. Họ đốt lửa để xua đuổi những
con hổ đói liếm mép, quẫy đuôi đi theo . Họ ngắt quả rừng nhấm nháp, tước dây
rừng vá víu quần áo. Váy xống các bà các cô đã rách tanh bành, da thịt hở hang,
họ cứ đi, như đàn khỉ, vượn chuyền cành.
Rồi một hôm ánh sáng vỡ òa trước mắt. Chân họ chùng đi vì đã đặt xuống đất
bằng. Họ đã qua được dải Đá Đen rùng rợn. Một cơn mưa như trút rửa sạch mọi lấm
lem trên mặt họ, gội tóc sạch tinh.
Bây giờ không còn ai khóc lóc gì nữa. Nước mắt đã cạn
kiệt. Người đã trơ ra thành đá. Đá Người chọi với Đá Thạch. Ngoảnh lại, ngọn
Lôi Sơn cao ngất trời, đã chìm mờ không rõ nữa.
Những dải cuối cùng của dãy Đá Đen hình cánh cung bao
vây một địa hình bằng phẳng , gió quẩn u u như tiếng hú chó sói khoan vào lỗ
tai. Núi chặn mưa ở lại phía sau các cánh cung, còn lại gió khan vào đây, biến
đất bằng thành sa mạc. Gió thổi cát bụi mù, cát quất vào mặt như roi cá đuối.
Đoàn người nằm la liệt như trên cát sa mạc cố ngủ để lấy sức. Các con cầy, cáo
đi ăn đêm nhằm các cẳng chân người gặm. Có người giẫy giụa đạp đuổi, nhưng cũng
có người đang hấp hối đành để nó nhai nuốt thịt da.
Bọn cầy cáo đông lúc nhúc, lần đầu tiên
được bữa đùa giỡn trên thân thể con người. Chúng chạy loăng quăng khoái chí,
giẵm vào những bộ ngực con gái êm êm, những thân hình lồi lõm. Một khi đã no,
chúng cũng chẳng cắn xé thịt người nữa, mà chỉ chạy rông nô đùa trên chiếc thảm
người mênh mông rải kín sa mạc. Chúng là chủ cái vương quốc cát ma quái này,
còn Con Người là khách vãng lai, tha hồ chúng bắt nạt. Mười ngày qua sa mạc đói
khát. Số người kiệt sức, nằm lại trong mộ cát mất một phần ba. Cột mốc đánh dấu
bước chân đoàn người đi tìm miền Đất Hứa là xác chết rơi rụng dọc hành trình.
Đường thiên lý cắm các cột mốc bằng xác người.
Nhưng trời vẫn
thương nòi giống Kakhan, vẫn để sống sót cả vạn ngàn người thể chất kỳ diệu để
đến được bên bờ sông Mê Giang.
Phaxia trèo lên mỏm đất cao, nhìn ra. Dòng sông xanh
biếc uốn lượn, đôi bờ thảo nguyên cỏ biếc xanh, bướm bay dập dờn. Cánh bướm
biểu tượng của cuộc sống. Phaxia nhón một cánh bướm, nước mắt rơi lã chã, anh
nói to với đoàn người.
-
Đây là
Đất Hứa. Chúng ta sẽ ở lại đây...
Đoàn người reo lên, chạy ùa ra vục mặt xuống dòng Mê Giang. Nước trong veo rửa sạch bụi đường.
Nước ngọt lịm trên môi.
Những cây phong lá rợi vàng của đôi bờ Mê Giang reo vi
vút như chào đón đoàn người. ..
*
* *
* *
*
Giọng người kể “Khan” bổng trầm như ngọn lửa bập bùng,
lúc ào ào bão tố, lúc thoảng nhẹ mơ hồ. Câu chuyện Khan lớp lớp như sóng dạt
dào.
Đống lửa trên sân trại càng khuya càng đỏ rực. Tiếng
lá phong rơi. Tiếng con vạc kêu sương. Những bà già ngồi nghe Khan, lau nước
mắt, ông già chau mày...
Chương thứ nhất
của Khan đã dứt. Nhưng lịch sử đau thương của người Kakhan chưa dứt, nó như
dòng sông còn trôi.
Máu đã đổ, xác đã vùi quanh chân dặng núi Lôi Sơn,
tưởng thế là đã đủ. Ai ngờ máu lại còn phải đổ thấm dòng Mê
Giang, dòng quá trong xanh, phải nhuộm cho nó đỏ.
... Miền đất Mê Giang như người mẹ ôm ấp những đứa con
bị người cha Lôi Sơn ruồng bỏ, lưu lạc đến đây. - Giọng người kể Khan thánh
thót - Sữa mẹ Mê Giang nuôi lớn những đứa con đói khát. Hạt giống lại vùi dưới
đáy phù sa. Lúa mạch lại trải dài mênh mông, hoa hướng dương lại nở vàng đầy
ong bướm lượn, hoa Oải hương tím ngát, thơm cả mây trời. Những chàng trai
Kakhan đã phi ngựa Tía, ngựa Hồng băng khắp thảo nguyên. Trong các trang trại
tiếng bò rống, tiếng cừu be be, tiếng gà trưa cục tác. Trong các ngôi nhà, bà
mẹ đau trở dạ, đứa bé ra đời khóc oe oe. Cô gái ra sông gánh nước, váy hoa xắn
cao, đôi chân hồng đẫm phù sa. Bếp lò đỏ rực, người vợ nướng nhân bánh táo. Sân
trại đầy lá rụng, chị gái vắt sữa bò, người cha đóng móng ngựa.
Mùa lại mùa, thu về ,lá Hoàng phong vàng rực, lá Đan
phong đỏ hồng. Tháng ba, hoa Anh đào nở rợp trời. Đám cưới Kakhan cô dâu che
mặt bằng lụa hồng, ngồi trên kiệu cho người khênh đi như công chúa.
Cỏ thảo nguyên xanh mướt. Chim gọi bạn tình suốt đêm
thánh thót. Mặt trời đêm đi lang thang đâu không biết, ngày lại về với thảo
nguyên, và mặt trăng như người yêu xinh đẹp, tháng tháng lại về tình tự.
Dòng Mê Giang trôi đi, không bao giờ hết nước, như
dòng thời gian. Dòng sông bồi đôi bờ cây lá, và dòng thời gian vô tận bồi đắp
những lớp người. Kakhan, Mê Giang dần đã thành một xứ sở đẹp tươi.
Trời muốn thử thách giống nòi chúng ta một lần nữa -
Giọng người kể Khan ngắc lại - Sau lần thử thách Lôi Sơn...
Một ngày kia, những đoàn người kỵ binh Sarát mặc áo da
cừu, đội mũ da cáo, từ phương nào xa lắc xa lơ vượt núi cao tràn tới. Những tên
lính to lớn, cục mịch như con bò cái, nặng nề như chum vại, mắt ti hí hùm hụp,
cằm nhẵn thín không một sợi râu, tay cầm thanh gươm cong cong, vai đeo cung,
dây xe bằng ruột linh miêu.
Chúng như cơn cuồng phong ào ào dữ dội. Vó ngựa giẵm
nát hoa Oải hương, hoa Hướng dương. Mõm ngựa hút cạn suối thảo nguyên. Ngựa của
chúng rất khát. Và miệng của chúng còn khát hơn. Nhưng chúng không uống nước
lã, mà uống máu người.
Những người dân Kakhan bị chúng đốn ngã như phạt chuối, và máu chảy
ra ồng ộc nhuộm đỏ cả thảo nguyên. Máu những người cha, người mẹ...
Sức mạnh của chúng là sức mạnh quỷ dữ. Chúng chém
người như phạt cỏ. Cỏ chất thành đống. Thảo nguyên được rải một lớp thảm mới:
xác người.
Chúng không hỏi, không nói không rằng, cứ phi ngựa
khắp nơi và chém. Quân Kakhan không chống cự nổi, cứ lui dần, lui dần. Và lưỡi
hái xén cỏ của chúng cứ vung lên cắt loại cỏ mới là cổ người. Nhựa cỏ này ứa ra
đỏ chói.
Chúng không biết chán và không biết mỏi, mỗi cơ thể
chúng là một con Rô bốt tự động đã được lập trình, vung lưỡi gươm lên nhằm vào
cổ người.
Tiếng kêu khóc của con người vỡ òa hòa với nhau thành tiếng
sấm rền ngày này qua đêm khác. Thảo nguyên xanh biến thành thảo nguyên đỏ.
Những con suối máu róc rách họp lại thành con suối máu lớn. Nhiều con suối máu
hợp lại thành tiểu giang đổ ra Mê Giang. Đôi bờ Mê Giang mênh mông cát mịn cứ
thu hẹp dần vì xác người lấp xuống. Có lúc dòng sông bị tắc. Một cù lao bằng
xác người nổi lên. Một đảo xác người nổi lên.
Thủ lĩnh của Sarát vào một hôm nào đó, hỏi các chiến
binh quỷ sứ của chúng:
-
Chúng
mày đã mỏi tay chưa?
-
Dạ. Đã
quá mỏi.
-
Áng
chừng đã giết được bao nhiêu người.
- Dạ, nhiều lắm - Chúng không biết đếm. Chúng không
biết số học, toán học. Chỉ biết ước lượng.
-
Đủ để chúng
sợ ta rồi chứ, không còn sức chống lại ta rồi chứ.
-
Dạ. Đã
đủ.
- Nếu giết hết thì cũng chẳng hay. Thảo nguyên vặt
trụi hết cỏ thì đâu còn thảo nguyên. Phải để lại một số người để chúng làm nô
lệ cho ta...
-
Dạ,
vâng thưa thủ lĩnh.
- Ta muốn có một chiếc tháp cao vút, vững chắc, để
trèo lên thưởng ngoạn phong cảnh. Gạch đá để xây là những cái sọ người. Mỗi cái
sọ người là một viên gạch, đá. Đó cũng là đài kỷ niệm các chiến công oai hùng
của ta.
-
Dạ
vâng.
-
Tháp
mười tầng, nghe chưa.
-
Ý
tưởng của thủ lĩnh thật độc đáo.
Bọn chiến binh Sarát bắt đầu biến thành thợ xây. Sọ
người có sẵn, và chế tạo thêm sọ người cho đủ. Một chiếc tháp cần bao viên
gạch. Sọ người cứng hơn đá. Các tầng tháp cao dần, đến tận tầng chim bay, gió
thổi.
Lịch sử khủng khiếp, có thật, đã xây chiếc tháp sọ
người bên bờ Mê Giang này.
Sáng sáng thủ lĩnh Sarát lên đỉnh tháp đón nắng mặt
trời. Chiều chiều lên tiễn ánh hoàng hôn. Và tối tối đón ánh trăng lên.
Đêm ngủ trong tháp, những viên gạch sọ người phát ánh
lân tinh mờ ảo. Cả ngôi tháp lung linh. Gió thổi u u qua các hốc mắt, hốc mồm
khúc ca ma quái…
Người kể Khan dừng lại, lau nước mắt. Đống lửa sân
trại được tiếp thêm củi cho lửa bùng to.
Một người hỏi:
- Thưa “Người kể Khan”, phải chăng chiếc Tháp Sọ Người đó là hình ảnh hư cấu làm
biểu tượng cho sự dã man của quân xâm lược khi đến xứ sở này.
-Không hư cấu, mà là hoàn toàn có thật. Sự kiện này
được ghi trong sử chính thống.Và có một bài thơ từ hồi đó còn đến bây giờ:
Năm 1389
Đại hãn Ta
méc lăng
(Địch thủ
của Thành Cát Tư hãn)
Đã lập xong
một đế quốc lớn
Giữa đất
trời Trung Á mênh mông
Ta méc lăng
có sở thích lạ lùng
Xây Tháp Sọ
Người cao ngất ngưởng
Sau cuộc
đánh thành ISpahan
Y xuất
xưởng
Bẩy vạn
chiếc đầu lâu
Sọ người
làm gạch xây chồng lên nhau
Để Ta méc
lăng lên cao thưởng ngoạn
- Chiếc Tháp Sọ Người thật là một biểu tượng của thời mông muội dã
thú xa xưa…
- Nhưng thưa “Người kể Khan” - Một chàng trai
đói thoại -Không cứ “buổi xa xưa” của lịch sử mà giữa thế kỷ 20 hiện đại, trong
lòng thế giới văn minh, con người đã biết chế ra máy bay, ô tô, tầu thủy, đã có
triết học Nhân văn, nhưng vẫn có các trại tập trung Au xơ vít, Ốt sơ ven xim...
nhốt người vào rồi bơm hơi ngạt cho chết. Tháp Ta méc lăng chỉ xây bằng 7 vạn
đầu lâu, còn cái nhà hơi ngạt đã giết chết mấy triệu người Do Thái.
Cả sân trại
ắng lặng. Không ai nói. Chỉ có tiếng lửa bập bùng...
- Và gần đây hơn
- Người đối thoại nói tiếp: - Tại
xứ sở nơi người ta từng xây được một ngôi chùa bằng đá lớn nhất thế giới, nghĩa
là nơi triết học nhân từ bác ái của Phật đã thấm nhuần lắm, vậy mà người ở đấy đã lấy cuốc bổ sọ người, xiên lưỡi lê
vào xác trẻ em... Chẳng có ngoại bang Ta méc lăng nào đến, mà chính họ đã giết
con dân họ tổng cộng cũng tới mấy triệu người.
Thế giới văn minh cực điểm bây giờ có gì bảo đảm
không bao giờ còn xảy ra cảnh đó nữa không.
Cả sân trại ắng lặng. Lại chỉ có tiếng lửa bập
bùng. Không ai trả lời được câu hỏi...
Người kể Khan lại trở về câu chuyện cổ tích của
mình. Ông chỉ biết chuyện cổ tích. Còn chuyện hiện đại để người hiện đại kể và
trả lời những câu hỏi của thời hiện đại.
* * *
* *
*
Chuyện cổ tích là chuyện của xa xưa chứa bao điều
huyền thoại, nhưng chuyện cổ tích của người Kakhan lại hoàn toàn là sự thật...
Người kể Khan, mắt nhìn ngọn lửa đăm đăm. Bài Khan của ông đã hết hai chương,
và bây giờ là chương cuối - …Năm tháng trôi qua, những người Kakhan không sống
nổi dưới ách bạo tàn của quân Sarát đã tìm đường chạy trốn - Người kể Khan kể
tiếp - Dung nham núi lửa Lôi Sơn qua nhiều năm đã nguội, cỏ lại mọc lên xanh
tốt, muông thú, chim rừng và bướm trắng lại trở về. Một nhánh người Kakhan từ
Mê Giang trở lại sa mạc, lộn lại dặng Đá Đen, về lại thảo nguyên chân núi Lôi
Sơn. Ngọn núi lửa hình phễu trắng xóa tuyết phủ sừng sững ,cảnh cũ người xưa. Thế hệ trở về nhớ câu chuyện cũ qua lời kể
của ông bà.
Những người Kakhan làm nhà dựng cửa, và sôi sục căm
thù quân Sarát. Đại bộ phận giống nòi Kakhan còn ở đó, Mê Giang, dưới sự giầy xéo của vó ngựa loài man rợ. Phải trả
thù, phải giải phóng xứ sở Kakhan Mê Giang.
Những người Kakhan tập hợp dưới bóng cờ của thủ lĩnh
trai trẻ mới nổi lên tên là Ghết man, y như ngày xưa theo chàng trai Phaxia đi
tìm Đất Hứa. Cùng lúc ấy, một nhánh khác của người Kakhan Mê Giang ,xuôi dòng Mê Giang tìm
được ra cửa bể. Những chàng trai chỉ quen với rừng núi thảo nguyên lần đầu tiên
thấy sóng đại dương. Nhưng họ không sợ, và không có đường nào khác. Thà chết
ngoài biển còn hơn quay trở lại làm nô lệ cho Sarát. Người cầm đầu tên là Alan
Sa cùng bạn bè lên một đoàn thuyền buôn vượt đại dương. Họ đánh bạc đời mình
với sóng biển. Bão tố đã vò nát đoàn thuyền buôn vỡ vụn thành những mảnh ván,
nhưng may sao con thuyền của Alan Sa thoát nạn. Sóng yên, biển lặng, họ trôi
dạt được vào một bến bờ. Alan Sa tận mắt chứng kiến những điều kỳ diệu ở cái
thành phố biển này. Ở đây không có các lò rèn đỏ lửa rèn giáo gươm, mà là những
xưởng đúc rót sắt gang vào khuôn để thành máy móc. Ở đây, không phải là ngựa
phi, mà là cả khối sắt phun khói tự biết đi... Không phải lưỡi gươm chém cổ
người mà là khẩu súng có nòng dài, rãnh xoắn, đẩy viên đạn ra xa.
Alan Sa và các bạn mình vào học việc trong một xưởng
chế tạo súng. Cánh tay con người ngắn lắm, lưỡi gươm ngắn lắm, nhưng đường đi
của viên đạn thì rất xa.
Nghe nói thời cổ đại ở miền đất phía Đông nào đó trên
địa cầu có nhiều mỏ diêm sinh, là chất dễ cháy. Người ta đã biết nhồi diêm sinh
vào ống tre rỗng đã khoan thông mấu đốt, đặt viên bi đá vào đó, đốt diêm sinh
cho bi đá bắn đi. Đó là khẩu súng đầu tiên của loài người.
Bao thế kỷ trôi qua, những người ở bờ biển phía Tây
này đã biết chế ra những khẩu súng nòng dài rãnh xoắn. Viên đạn qua nòng rãnh
xoắn biết xoáy như con quay trong không khí, đi thẳng hướng đến mục tiêu, không
bị xiên xẹo. Đã thế người ta lại biết chế ra viên đạn hình trụ dài ,nén nhiều
thuốc nổ mạnh hơn diêm sinh.
Alan Sa và các bạn học nghề làm súng nòng rãnh xoắn.
Anh mua được nhiều thuyền súng bằng lời hứa khi đuổi được bọn Sarát ở Mê Giang,
sẽ trả giá gấp trăm ngàn lần.
Thuyền súng gối sóng trở về Mê Giang. Họ tụ tập nhau
trong hang sâu, núi cao hiểm trở. Họ hẹn hò cùng thủ lính Ghết man ở Lôi Sơn,
dẫn các dũng sĩ vượt Đá Đen, sa mạc, trở về phối hợp...
Một ngày kia giữa trời quang mây tạnh, một cơn sét
kinh hoàng giáng xuống Tháp Sọ Người
, nơi quảng trường kinh đô Sarát, bên bờ Mê Giang. Bẩy vạn hồn oan cùng rú lên
nỗi uất hận chuyển động bầu trời.
Bọn Sarát bao năm bao đời phè phỡn, ngày càng ngông
nghênh. Rượu lúa mạch vàng trồng trên phù sa Mê Giang ngọt cháy môi. Chúng ngất
ngây, cầm gươm chỉ phía trời xa, đắc thắng cả cười, nhìn dân Kakhan khom lưng
làm nô lệ. Nghe nói quân Kakhan từ rừng núi tiến về kinh đô Mê Giang, chúng
nhếch môi cười. Mấy đời, cụ, ông, cha, con, cháu... chúng đã quen san phẳng mọi
thành trì, làm cỏ những kinh đô đối phương, đốt sạch, giết sạch để lấy đất
trồng cỏ nuôi ngựa. Dân tình từ Tây sang Đông, Nam lên Bắc đều phải hàng phục
dưới vó ngựa của chúng. Con, cháu, anh em các tiểu hãn, đại hãn Sarát đã được
phong vương cai quản các miền đất rộng dài, y như là Thượng đế quá nhiều đất phải
mời chào chúng để đến làm chủ.
Để có thửa đất, người ta phải bỏ ra bao nhiêu tiền bạc
để mua, bao nhiêu giấy tờ chứng nhận phiền toái. Nhưng với bọn xâm lăng, cả
quốc gia lãnh thổ kẻ khác, về tay chúng, mà chả mất một đồng mua, chẳng cần một
giấy tờ chuyển nhượng, chẳng cần nhờ Thượng đế ký tên đóng dấu.
Bọn Sarát, vó ngựa phi đến đâu, biên cương lãnh thổ
quốc gia của chúng di chuyển đến đấy. Lưỡi gươm cắm xuống đất làm mốc. Sọ người
là các hòn đá cõi. Máu người là mầu son con dấu...
Những tên thủ lĩnh con cháu của Ta méc lăng ngông
nghênh kiêu ngạo từ kinh đô phi ngựa đến miền đồi nơi quân Kakhan khởi nghĩa.
Một rừng kị binh Sarát xông lên, gươm khua hoa mắt, cùng tiếng reo hú man dại.
Chúng đinh ninh là chỉ trong chớp mắt nữa thôi, đầu Kakhan lại rụng như sung,
máu lại tuôn thành suối. Chúng ngạc nhiên vì đã lâu lắm rồi, có đoàn quân nào
dám chống lại chúng đâu. Sao bây giờ... Âu cũng là một dịp để kỵ binh Sarát tôi
những lưỡi gươm mới rèn trong máu.
Những lưỡi gươm Sarát hươ lên tưởng như có thể chém được
cả mưa dứt hạt. Nhưng kìa... đoàng đoàng đoàng... những viên đạn của nòng súng
trường rãnh xoắn bắn từ xa, cứ như có mắt, không lệch một ly, ghim vào ngực các
kỵ sĩ chiến binh tiên phong nhất của Sarát.
Chúng không hiểu gì cả. Máu từ viên đạn đổ ra không
nhiều bằng máu từ cổ bị chém. Nhưng hàng quân Sarát cứ bị đốn ngã rơi từ trên
mình ngựa xuống như sung rụng.
Đoàng đoàng đoàng... Những tràng súng reo vang. hai
thủ lĩnh Ghết man và Alan Sa của Kakhan dẫn đoàn quân súng trường lao thẳng vào
hàng quân Sarát. Chúng vẫn chưa hiểu lắm, nhưng người đã chết ngổn ngang. Những
viên đạn xé gió dữ dằn từ xa, làm cho chiến binh Sarát chưa kịp phi ngựa đến,
chưa kịp vung gươm thì đã ngã rồi. Những con ngựa hí kinh hãi. Lần đầu tiên
chúng nghe thấy tiếng nổ đinh tai, làm bốn vó chúng phải chùng.
Đoàng đoàng đoàng... Hết lượt hàng chiến binh này đến
hàng chiến binh khác của Sarát gục ngã. Các chiến mã mất chủ trên yên sợ hãi
quay đầu bỏ chạy.
Huyền thoại chiến binh Sa Rát bao đời làm sởn tóc gáy
mọi người, bắt đầu sụp đổ .Gươm không đọ nổi súng. Một rừng súng trùng điệp
đồng thanh nhả đạn làm những tiểu hãn đại hãn thông minh nhất của Sarát bừng
tỉnh. Trời đất đã thay đổi. Thần linh đã đổi thay... Xác Kakhan xưa lợp
kín mặt thảo nguyên bao nhiêu thì bây
giờ xác những chiến binh Sarát cũng lợp kín mặt thảo nguyên như thế...
... Đống lửa sân trại đã gần tàn. Sương đêm lành lạnh.
Giọng người kể Khan hào hứng, dồn dập, phấn khích. Những người ngồi nghe ,reo lên se sẽ. Rồi không kìm được, họ vỗ
tay vang dội, y như họ đang ở trong đoàn người chào đón các chiến binh Kakhan
chiến thắng trở về...
3 - 4 - 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét