QUÁN CƠM SĨ TỬ
Truyện ngắn của Nguyễn Phan
Hách
Từ
ngày song thân khuất núi, cô Phụng ở một mình trong ngôi nhà ngói âm u ngõ Cửa
Nam Trấn thành. Cha cô, ông Giáo thụ xứ Lạng, làm
quan thanh liêm, nên về già, cảnh sống quạnh hiu, tài sản chỉ là mấy bức thư
pháp và chậu mai già.
Cô Phụng được cha dậy từ nhỏ nên dù là phận gái, cũng đọc
được Kinh thi, biết làm thơ Bát cổ. Ông Giáo thụ sinh con một bề, vẫn chắt lưỡi tiếc thầm, nếu nó là
con trai thì dòng họ nhà ông đâu đứt đường khoa hoạn. Sức học của ông Giáo thụ tưởng là dày, nhưng lận đận trường ốc, mãi về già
mới đỗ Cử nhân. Nhậm chức dăm năm thì đã về hưu. Cô Phụng
thương cha, con người thanh cao, mà tạo hóa bất công.
Cô Phụng xinh đẹp nết na, nhưng suốt ngày quanh quẩn trong
ngõ, chẳng đi đến đâu, nên dù tuổi đã đôi mươi mà chưa có người đưa nhạn nhắn
hồng.
Năm nay, nhìn chim én bay về, hoa dại vàng bờ giậu, cô bỗng
thấy buồn buồn. Hôm trước đi chơi Kiếm Hồ, qua Quảng trường Tràng Thi, thấy phu
dẫy cỏ dựng nhà, làm chòi, cô biết mùa thi Hương Hà thành sắp đến.
Mùa thi tức là sĩ tử tứ xứ hào hoa phong nhã đổ về. Cô
Phụng nghĩ mình xinh đẹp, thanh nhã, con nhà thi thư, lẽ nào cứ để hoa tàn
trong bóng tối. Kiểm dấn vốn, cô quyết định mở hàng cho thuê trọ. Cửa Nam , đi vài bước chân đến Trường thi, sĩ tử nào chả thích. Cô Phụng muốn được
chuyện trò dăm ba khúc Kinh thi với chàng sĩ tử nào đấy. Hồ Xuân Hương xưa dựng
quán văn chương bên Hồ Cổ Nguyệt, bao khách văn có cả thi hào Tố Như đến đây
xướng họa. Ta không phải Hồ Xuân Hương, ta chỉ là người nấu cơm cho các chàng trai sĩ tử để chàng đi thi.
Dựng cái biển đầu ngõ, chỉ hôm trước hôm sau, đã có hai
chàng trai xứ Bắc với hai thằng tiểu đồng gánh tráp đến . Cô Phụng niềm nở đón
chào. Một chàng đẹp giai, hồ hởi, có tên hiệu văn nhân là Triêu Dương ,còn chàng kia
nhỏ bé âu sầu tên hiệu Sở Bao.
Thầy Triêu Dương người phủ Từ Sơn phía Bắc sông Đuống. Thầy
Sở Bao người Phủ Thuận An, phía Nam
sông Đuống. Hai thầy đắc ý, vì tìm được quán trọ có cô chủ đẹp xinh. Ngay hôm
đầu tiên, bên hiên sực mùi hoa Dạ lan,hai thầy đã
xem cuốn Di cảo của ông Giáo thụ xứ Lạng, trầm
trồ bình phẩm. Rồi cùng cô chủ đàm đạo, văn chương mênh mang lẫn với chuyện đời.
Vùng quê của hai thầy, một đống ông Đồ, một bồ Tiến sĩ, một bị Trạng nguyên, một thuyền Bảng nhãn, nhưng hai
thầy vẫn chua chát nhắc câu “học tài thi phận”, ông Chu Thần đấy xưa bụng có hai bồ chữ trong tổng số ba bồ
chữ của thiên hạ, nhưng nào có đâu bia đá bảng vàng ...
Cô Phụng mua rau thịt tươi ngon, trà thơm thuốc đậm cho hai
thầy.
Đêm, màn phủ kín, trầm hương
bài xua muỗi. Sáng ra, thau đồng bóng nhoáng múc nước mưa cho hai thầy rửa mặt.
Canh khuya, bát chè sen thơm phức mời hai thầy ăn.
Hôm hai thầy đi thi, cô dậy
từ tinh mơ, nén xôi, gói muối vừng. Tầm trưa, cô rảo gót qua cửa Trường thi, nhìn vào xa xa, thấy lều chõng san sát dưới
nắng vàng hoe, sĩ tử đang cắm cúi làm bài. Cô bỗng trách nhà nước sao không cho
đàn bà con gái ứng thí. Nếu cho, cô cũng dám có mặt trong
đám sĩ tử kia, sợ gì…
Những ngày thi qua đi, cô hồi
hộp lo lắng cùng với sự lo lắng của hai thầy khóa. Ngày kết thúc, cô cũng thở phào như họ. Thầy Sở Bao làm bài có vẻ
tốt, nên trông dáng điệu vui hơn, đang từ âu sầu thành nói luôn mồm. Còn thầy
Triêu Dương lại trở thành lo lắng, tư lự…
Điều cô Phụng cảm nhận được trong đầu mày cuối mắt là cả
hai thầy đều để ý đến cô, thích vẻ đẹp thanh nhã thi thư của cô, và nếu cô bật
tín hiệu, là họ sẽ vượt qua ngưỡng cửa khó nói. Gì chứ với trai tài gái sắc tương ngộ, yêu nhau là nhanh lắm. Đây trong bối cảnh phố phường tự do, chứ không phải ở nếp nhà đại gia thôn quê. Lòng cô
Phụng xốn xang. Cô biết chọn ai. Ai? Số phận cô sẽ như
thế nào với người này và với người kia. Anh khóa Triêu Dương đẹp giai, dễ gần
lắm. Anh khóa Sở Bao trầm tư, nội tâm…Hai người, ai yêu nhiều, ai yêu ít hơn ai.
Làm sao mà biết được số phận. Thôi, người đàn bà như hạt
mưa sa,rơi vào đâu, được phận nấy…Hạt vào dưới giếng hạt ra vườn
đào...
Hai thầy khóa về quê, chờ ngày công bố kết quả. Cô Phụng
cũng chờ đợi bâng khuâng. Ngày họ trở lại, cô mừng như chưa bao giờ mừng thế.
Họ đi xem bảng về, anh Sở Bao nhẩy chân sáo vì đỗ Cử nhân, còn anh Triêu Dương chỉ đỗ Tú tài. Cô Phụng ra ngõ, bước rều rễu theo anh lính cưỡi ngựa khắp phố phường
xướng danh Tân khoa, náo nức vui mà thỉnh thoảng lại chùi nước
mắt. Rồi cô đến Quảng trường chứng kiến cảnh Tân khoa ra mắt các quan. Chòi các quan ngồi, lọng tía
lọng xanh hai bên, ông Tân khoa mặc áo vua ban, run lẩy bẩy,
bước lom khom vái lạy hai bên. Nhìn điệu bộ, cô bật cười nghĩ bụng bây giờ trông thì thế kia thôi, nhưng rồi sau ra làm quan
lại chả hét ra lửa. Đón anh Sở Bao ở cuối đoạn đường, cô Phụng bảo:
- Anh
Cử sẽ vào Kinh để thi Hội, thi Đình. Em chúc anh chiếm bảng khôi khoa.
Bốn
mắt nhìn nhau bừng cháy. Cô Phụng e lệ:
-
Anh đỗ đạt làm quan nhớ đừng quên em nhé.
Không có dịp nào “giao lưu”
đẹp hơn giờ phút này. Anh Cử Sở Bao thầm thĩ:
- Anh
sẽ đi thi. Em có chờ được anh không. Bởi anh phải đại đăng khoa rồi mới tiểu đăng khoa. Bố anh là một nhà nho
nghiêm khắc. Ông quyết cho anh phải thi cử đến cùng. Không đỗ Tiến sĩ là ông ấy quật chết. Cử nhân thế này rồi, nhưng
về nhà sao nhãng học hành là ông ấy cũng cho
roi vào đít chứ chả đùa. Chưa đỗ thì chưa vợ con gì hết. Bán nhà bán
ruộng để cho con đi học, đi thi thì ông ấy cũng bán. Ông ấy xưa mấy lần đều
trượt thi Hương nên cay cú.
Cô
Phụng bật cười, nhớ đến cảnh cha mình thỉnh thoảng cũng cho roi vào đít những
anh học trò lớn xác học dốt, chỉ giỏi mắt
la mày lém liếc gái...
Anh Cử Sở
Bao vội vàng về quê để bố mổ bò khao làng. Còn
anh Tú Triêu Dương nấn ná ở lại.
- Tú
tài thì chưa đi thi Hội, thi Đình được. Nhưng em nghĩ khoa sau, anh lại đi thi
để đỗ Cử nhân, chưa muộn, chả làm gì phải buồn anh ạ… - Cô
Phụng bảo.
- Anh
không buồn - Triều Dương bảo - Anh đỗ Tú tài thế này đã là phúc bằng cái đình
rồi. Đâu dám mong gì hơn. Nói thật với em ,việc thi cử quá sức anh. Anh học như cuốc kêu mà chữ nghĩa không vào,
cứ trượt đi đâu mất. Cái thằng Lịch (tên cúng cơm của Sở Bao) nó mới là thằng
học giỏi. Học đâu nhớ đấy, học một biết hai. Còn anh, anh chán thi cử lắm rồi.
Đỗ được Tú tài, làm vui lòng bố mẹ, bố mẹ mở mày mở mặt với dân làng, thế là
đủ. Đến ông Tú Xương lừng danh ở thành Nam , cũng cả đời chỉ đỗ Tú tài. Anh
bằng Tú Xương rồi còn gì. Đâu phải ai cũng được như ông Nguyễn Khuyến Tam
nguyên Yên Đổ. Mà có như ông Yên Đổ thì cũng thế thôi. Làm quan được vài năm,
lại về ao thu ngồi câu cá, chứ có làm được cái trò gì.
Anh tự hỏi tại sao con người
ta, cứ phải học cái thứ văn chương cử tử này mới được chứ. Toàn chuyện hão
huyền không đâu. Tại sao ai cũng lao đầu vào học
-
“Vạn ban giai hạ phẩm/ Duy hữu độc thư cao”,
mà - Cô Phụng nói.
-
Nhầm. Sai. Nhắm
mắt theo lời dậy ấy của tiền nhân là sai lầm lớn. Trừ một số người học cỡ siêu,
tài giỏi, ra làm quan trị dân giúp nước là có ích, còn lại không ít là bọn: “dài
lưng tốn vải”. Cậy có ít chữ nghĩa trong đầu, lười không lao động, chẳng làm
gì, chỉ biết lý thuyết suông ,khối kẻ thành gàn dở.
Ai cũng đọc sách, vậy trên đời lấy ai lao động làm ra của cải vật chất nuôi
sống con người. Ai cũng chăm chăm ôm một mớ chữ nghĩa sáo mòn, “vạn
ban giai hạ phẩm” nó không làm ra thóc gạo thì đói há mồm. Anh
nghĩ “độc
thư” cũng chỉ là một nghề, như các nghề khác. Tất cả các
nghề làm ra của cải trên đời, đều “cao”
hết. Đời anh không thành Tiến sĩ ,Bảng nhãn, Thám hoa được, nhưng anh sẽ chọn một nghề để sống, để làm giàu,
vinh quang chẳng kém gì ai. Mẹ anh ở quê làm nghề nhuộm màu the thâm, màu mà đa
số người ta dùng. Không có mẹ , thì bố anh, ông đồ gõ đầu mấy đứa trẻ ở quê chết
đói. Anh thấm thía điều này lắm. Mấy hôm
nay ,đi chơi 36 phố Hà thành, quan sát thấy lác đác chỉ có vài hiệu nhuộm the thâm nhỏ bé. Tại
sao không mở cửa hiệu lớn, thu hút khách hàng. Anh
sẽ về bán ruộng ở quê lấy dấn vốn ra đây mở nhà buôn. Đem theo mẹ anh ra làm
thợ Cả. Tơ lụa và màu thâm sẽ cho mình tiền, chứ mấy câu “chi hồ giả dã” có no bụng được không?
Em xinh đẹp, nhanh nhẹn, chăm làm, lại có cái nhà này,
tuy trong ngõ nhưng ở trung tâm Hà
thành. Em cho anh thuê. Ta mở xưởng nhuộm ngay tại đậy Em đi mua the trắng, mẹ
anh nhuộm, rồi em đi bán the thâm…
Hóa
ra anh Tú Triêu Dương đặc nòi nhà buôn. Thảo nào học dốt, thi đỗ thấp là phải.
Tuy vậy, cô Phụng nghe thấy không phải không có lý. Đời người ta phải sống chứ. Không học được thì đi tìm nghề gì để sống
. Chẳng có nghề nào “hạ phẩm”…
Cô Phụng theo anh Tú lại đi một lượt 36 phố
phường xem dân tình làm ăn buôn bán thế nào để bắt chước. Hóa ra anh Tú tên
hiệu văn nhân thì thật kêu, nhưng trong bụng thì toàn nghĩ chuyện làm ăn, bây
giờ kết thúc kỳ thi, ngưng chuyện học hành, mới có dịp thực hiện…
Thực lòng thì cô Phụng chưa bao giờ nghĩ
đến chuyện này. Một thân một mình, tiêu pha bao nhiêu mà lo. Cô chỉ chăm chăm
tìm người đáng mặt để trao thân gửi
phận, nương nhờ. Nhớ lại hôm chia tay anh Sở Bao, lòng cô lại bâng khuâng. Anh Sở Bao bảo cô đợi anh. Cô mơ màng nghĩ
đến cảnh: “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”, vinh quy bái tổ. Nhưng cái
ngày ấy chắc còn xa lắm. Một hai chục
năm. Mà rồi chắc có đỗ không, có cái ngày ấy không. Đại đăng khoa rồi anh Sở
Bao mới tiểu đăng khoa. Anh Cử ơi, lời nói của anh gió bay lên trời, ai mà biết
được. Thôi ở quê anh cứ vui mà dựng rạp khao làng, sau đấy thì vùi đầu vào học,
học đến lúc giật mình tóc bạc. Sau này nhớ đến em, nếu lúc ấy em còn là con
gái, anh hãy cho em lên võng đào. Bằng không, em sẽ bồng con ra đứng bên đường
xem đám rước...
Cô Phụng không ngờ từ cái quán cơm sĩ tử
này mà nẩy ra bao nhiêu chuyện làm cô trăn trở , bao đêm không ngủ. Một bên là
anh Đặng Kim (Tên thật của Triêu Dương) hối thúc bên sườn mở nhà buôn nhuộm. Một
bên là hun hút xa xôi mộng mơ vô vọng. Anh Kim đã bán được ruộng, cầm một cục
tiền ra Hà Nội, chỉ chờ quyết định của cô. Anh Lịch đã vào trường thi trong
Huế, nghe đâu đã trượt. Anh Lịch không nhắn gửi gì mà Kim thì ngay bên cạnh.
Một ngày kia điều phải đến đã đến, ngoài ngõ Cửa Nam chiếc biển mới treo lên: Nhà
buôn Kim Phụng, mua bán tơ lụa và nhuộm the thâm.
Công việc làm ăn cuốn như nước chảy. Nhà
buôn tấp nập cả chục người làm. The nhuộm phơi đầy bờ rào Cửa Nam . Cô chủ còn
gánh cả đống the đến phơi trên sân cỏ Quảng trường
Tràng thi, nơi sĩ tử từng ngồi trong lều chõng nhả ngọc phun châu. Thuốc nhuộm nhuốm
bàn tay cô Phụng thâm thâm, nhưng trên cổ cao trắng nõn đã rủng rỉnh kiềng
vàng.
Cái phải đến tiếp theo rồi lại đến. Một ngày kia ngõ Cửa Nam chăng dây
tơ hồng, pháo nổ lụp bụp, đám cưới nhà buôn Kim Phụng diễn ra sang trọng, cả
ngõ được biếu bánh cốm Hàng Gai…
Cuộc sống êm đềm trôi. Mười năm
sau, một hôm cô Phụng trốn chồng thuê đò
dọc về Nam
sông Đuống. Hôm ấy trời cao trong vắt, nắng vàng, tiếng trống rậm rình, tiếng
loa ậm ọe, cờ xí rợp trời, cô Phụng đứng bên đường xem quan Đệ nhị giáp tiến sĩ
cập đệ đệ nhị danh Sở Bao vinh quy bái tổ. Quan cưỡi ngựa hồng, mặc áo thụng
xanh, mũ cánh chuồn, lọng tía che đầu. Đằng sau là vợ quan nằm võng đào cho
lính rước. Anh Sở Bao ơi, sao anh bảo em là anh đại đăng khoa rồi mới tiểu đăng
khoa. Thế ai nằm trên võng đào kia? Cô Phụng lẩn vào sau đám đông, không để
quan tân khoa nhìn thấy. Suốt dọc đường các cô gái đẹp đổ xô ra xem mặt chàng
áo xanh.
Mẻ ruộm the thâm lần ấy bị lỗi loang lổ, bán ế. Nhưng các
mẻ sau lại đẹp. Và cuộc sống lại đi vào nề nếp.
Và nhà hàng Kim Phụng vẫn ngày càng ăn nên làm ra, đến một ngày kia thành một Hãng buôn nổi tiếng. Lại mười năm sau nữa, một hôm bà
chủ Kim Phụng bệ vệ nõn nà đi xe tay đến cửa hiệu tơ lụa hàng Đào của bà. Hôm
ấy có một văn nhân già âu sầu thiểu não bước vào hỏi
mua mấy thước the thâm. Kim Phụng chăm chú nhìn rồi kinh hoàng thốt gọi:
- Trời
ơi, quan Nghè Sở Bao, làm sao ra nông nỗi này.
Hai vngười nhận ra nhau. Ông
Nghè thất thế ngậm ngùi:
- Tôi
làm việc, phạm lỗi oan khiên, từ chức Huyện quan bị cách xuống làm Thư lại…
Cô Phụng nhìn mái tóc của ông
Nghè đã bạc trắng. Cô xé mấy vuông the thâm tặng người quen cũ, thở dài…
4-7-2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét