BƠI THUYỀN THÚNG
Truyện ngắn mini
Nguyễn Phan Hách
Tôi nhận trách nhiệm của Công ty Du
lịch đưa bà Mêri đi chơi biển. Đây là
một khách quen, và tôi biết rất rõ về bà, một người sống độc thân, uống rượu
mạnh, và thích “ăn chơi”. Trắng trẻo, quý phái, lịch sự, lãng mạn, bà đi đâu,
ai cũng có cảm tình.
Tôi đưa bà về bãi biển Mê Khê. Bãi
nhỏ, mới khai thác, nước xanh biếc, cát sạch tinh, và người thưa vắng, tránh
được cảnh ồn ào náo nhiệt của các bãi tắm quá tải.
Bà Mêri thích lắm. Thuê một phòng nhỏ
trong khách sạn sát mí biển, mở cửa sổ có thể thấy sóng lớp lớp xô bờ.
Bãi Mê Khê có một “dịch vụ nghiệp dư”
tự phát của ngư dân ở đây: cho khách bơi thuyền
thúng. Chiếc thuyền thúng bé tẹo, đan bằng tre trát sơn đen, tròn lung lủng, dân vẫn dùng đi câu tôm đêm ven bờ. Không hiểu vì sao
với con thuyền mỏng manh, như vỏ hạt dẻ kia mà người ta dám bơi ra biển. Sóng
bờ cũng to lắm chứ.
Thế là tôi phải thuê cho bà Mêri một
con thuyền thúng. Chủ thuyền là bà
Dặm, ngoài 50 tuổi, nhưng đàn bà miền biển săn chắc mạnh mẽ, lái thuyền đi băng băng,
đầy tự tin.
Bà Mêri mặc áo phao, hào hứng bước
lên thuyền. Chai Uýtki nhỏ và ly cầm tay. Vừa trải nghiệm thuyền thúng lướt trên các ngọn sóng, vừa nhấp ly rượu
cũng thú vị chứ.
Tôi thuê tiếp chiếc thuyền thứ hai
với các dụng cụ cứu nạn đầy đủ, áp sát để bảo hiểm và quay phim bà.
Bà Mêri ngông nghênh “tạo dáng” bước
lên thuyền. Sáng nay sóng khá to. Những lớp “đăng ten” trắng dào dạt lớp lớp
cuộn vào bờ.
Bà Dặm khéo léo đưa thuyền nhẩy tưng
tưng như ném thia lia trên các ngọn sóng. Tôi thật lạ là làm sao đôi bày tay
người đàn bà kia lại có thể làm được như thế. Trông đáng sợ lắm. Từng lớp sóng
cuộn lên cao,
rồi lại ném xuống, trập trùng, mênh mông, mà con thuyền thì đúng chỉ bé bằng vỏ hạt dẻ. tưởng như sóng đập nó
vỡ ra đến nơi. Mà chả cần song, chỉ cần một đám bọt nước xối mạnh, cũng làm vụn ra. Nó bằng
nan tre đan trít sơn thôi mà. Thế mà với hai mái chèo, bà Dặm điều khiển được
nó đi trên
các ngọn sóng, làm như nó chả có “liên quan” gì đến song cả.
Tôi ngồi thuyền sau quay phim. Bóng
bà Dặm hằn
lên nền trời, nền biển bao la. Đôi vai áo nâu tròn trặn, và đôi tay dẻo như có
cánh.
Bà Mêri chưa kịp nhấp ly rượu nào,
chưa kịp trải nghiệm khoảnh khắc “du lịch mạo hiểm” nào, đã bò rạp xuống
thuyền, một đống váy áo da thịt trắng ngần cuộn tròn lại. Chỉ phút chốc mặt bà
tái nhợt, vàng ệch, và mồm nôn ồng ộc. Tôi tuyệt đối chưa ghi được một khuôn
hình “trài nghiệm du lịch mạo hiểm” nào của bà, lòng rất băn khoăn. Thuyền vẫn
lướt đi, mà lướt theo hướng ra xa. Hợp đồng chương trình là như thế. 30 phút
trải nghiệm, giá 1 triệu đồng. Ra xa rồi mới quay về.
Bà Mêri đến lúc cuộn tròn trong lòng
thuyền cũng không yên nữa, phải vứt cả rượu cả ly, ôm chặt lấy hai chân bà Dặm.
Vì sóng thì vẫn cứ trập trùng, mênh mang như lúc trời đất còn hỗn mang.
- Quay về, quay về - Bà Mêri hét gọi
tôi.
Đoạn về cũng không phải đùa. Thuyền
phải “ném thia lia” thế nào cho đúng luồng, mới cập được bờ. Khi thuyền chạm
cát, bà Mêri như rải khoai, tôi và bà Dặm phải xốc nách hai bên về lều.
Mệt vì say sóng, vì sợ, hôm sau bà Mêri
mới “đàm đạo” cùng tôi:
- Bà Dặm có trọng lượng bằng nửa
người tôi, mà sao lại “tài giỏi” thế. Cùng là “đàn bà” cấu tạo như nhau, mà sao
khác nhau một trời một vực. Tôi có cảm giác, ấy lướt thuyền, bà ấy như con
chim, còn tôi là “con sứa” sắp tan ra thành nước.
Bà bắt tôi đưa bà đến “thăm viếng xã
giao” bà Dặm. Nhà bà Dặm gần mí biển,
tanh nồng mùi cá, gió thổi lồng lộng, làm vèo bay những bông hoa Muồng tím nhạt trước hè.
Bà Dặm tiếp nhiệt tình. Chồng bà, một ngư dân chất phát, hiền hậu, đi
hấp “tôm hùm” mời chúng tôi ăn. Những con tôm bà Dặm mới bơi thuyền thúng câu
được đêm qua, tươi rói, ngọt thơm. Mêri nói ở Pháp chỉ tết Nôen, bà mới dám mua
loại tôm này về ăn.
Hai đứa con bà Dặm, một trai một gái,
học đại học ngành thủy sản, giờ đang làm cán bộ trên tỉnh liên quan đến nghề
đánh cá nhưng lương lậu cũng chỉ đủ ăn. Vợ chồng bà vẫn phải “bám biển” để sống, và trợ cấp thêm thắt cho con. Chồng
bà là dân đi đánh bắt xa bờ, mỗi đợt cả tháng mới về, vật lộn với
Thái Bình Dương, có lần bão đánh vỡ tan thuyền, bám mảnh ván bơi trên biển mấy
ngày mới được cứu hộ.
Còn bà, với chiếc thuyền thúng mỏng
manh ,câu tôm đêm, năm
này qua năm khác, từ lúc 16 tuổi đến giờ đã được 38 năm. Chiếc thuyền này mục
hỏng, bà thay chiếc thuyền khác. Đã cả trăm chiếc thuyền thúng qua tay bà.
Bà Dặm ngồi mắt đăm đăm nhìn ra biển,
và cười cười “miêu tả” lại cảnh câu tôm đêm như thế nào theo yêu cầu của khách
du lịch.
… Mỗi buổi tối, tôi kéo thuyền từ bờ
cát ra biển - Bà nói - Thuyền khá nặng, phải cố sức đẩy . Nó cứ trịt trên cát,
không chịu đi cho. Chớm đến nước nó mới chịu nổi phềnh. Tôi bơi ra xa, càng xa
càng nhiều tôm hơn, xa đến mức không nhìn thấy bờ cát nữa. Ở đấy tất cả mênh
mông, đen ngòm, sóng buôn dập dềnh, tôi bắt đầu thả câu buông lưới…
Theo lời kể của bà, tôi tưởng tượng
hình ảnh con thuyền thúng của bà lúc ấy cô đơn như thế nào giữa trời nước bao
la về đêm. Mà nào phải là thuyền gỗ, thuyền đinh chắc chắn, nó chỉ là những nan
tre đan to hơn cái thúng, có lẽ chu vi vài mét là cùng. Nó so với biển thì thật
đúng là buồn cười,mong manh như vỏ trứng.
Vậy mà cô gái Dặm, một mình ngồi đấy,
đêm này qua đêm khác, thức với đại dương, từ lúc 16 tuổi đến giờ, ngoài 50
tuổi. Biển thành “giường ngủ đêm” của bà. Bởi câu đêm là câu từ tối đến sáng, càng về sáng càng được nhiều tôm.
“Giường ngủ đêm”, nhưng nào có được ngủ. Chỉ biển ngủ thôi, còn bà phải thức. Biển ngủ, nhưng biển “ngáy” hơn
sấm. Tiếng biển đêm ầm ào, sóng quện với bóng tối.
Bà ngồi chồm hổm trên Thái Bình Dương
một mình. Có lúc Thái Bình Dương để cho bà ngồi yên, nhưng có lúc nó giở mình vì mỏi, lật úp thuyền bà. Và bà
phải nhẩy xuống sóng, lựa chiều lật nó ngửa lên, tát nước ra. Chỉ đôi tay “mềm yếu” của
con gái, mà làm được việc ấy. Đôi tay
thiếu nữ phải xục vào sóng lật ngửa thuyền lên.
Cả đời bà phải giữ cân bằng cho thuyền
không bị sóng lật úp. Thái Bình Dương thì đêm nào cũng chỉ nhăm nhăm lật úp
thuyền bà như cuộc đời chỉ nhăm nhăm xô đẩy dập vùi số phận con người.
Bà phải thắng được nó, thì mới sống.
Thái Bình Dương rộng mênh mông, mà đêm đêm chả có ai cạnh bà. Mình bà.Một mình bà. May mắn, thì trên trời có
những ngôi sao. Ừ, phải rồi, nói bà cô đơn trong đêm thì cũng “hơi oan”, vì
trên trời còn có những ngôi sao. Và mỗi tháng một kỳ, có trăng. Bà làm bạn đêm
với trăng và sao Thái Bình Dương. Sao nhấp nháy, hàng tỷ ngôi sao đang rõi
theo, quan sát bà từng động tác câu tôm. Vậy là bà cũng không đến nỗi
“lẻ bóng” một mình lắm! Còn trăng thì có lúc tròn vành vạnh, làm bạn “gần gũi” hơn,. Chỉ đến kỳ
cuối tháng, trăng “đi gặp người yêu” ở đâu, mất tăm , không gặp. Bà thấy hờn hờn, rỗi rỗi, ghen ghen… Phút gặp
lại nhau có gì vui lạ.
Sau suốt một đêm thức trắng, thường
thì mặt trời từ chân biển tít xa nhô lên, đầu tiên là một vành nhỏ như lưỡi
liềm bằng vàng, rồi bay vút lên tròn xoe rực rỡ. Mặt trời đã thức, biển đã thức, ánh chói lòa, bà tắt chiếc đèn chai (bóng
làm bằng chai cưa đáy, thủy tinh dày cộp để chắn gió đêm.)
Những con tôm trong thúng nhảy lách
tách, bà bơi thuyền về bờ cát, bắt đầu “hòa nhập” với “cuộc sống”, sau một đêm
tách ra khỏi “thế giới”. Bây giờ thì bà “bận rộn” lắm, đi bán tôm,đòi giá đắt rẻ, chả để ý gì đến mặt trời
đang lòi lọi trên đầu. Chỉ đến hoàng hôn, sắp tối, mặt trời sắp lặn, bà kéo
thuyền ra biển, mới thấy “nhơ nhớ” mặt trời,…
Bà Mêri thích thú trước những lời miêu
tả cảnh câu đêm “ấn tượng” của bà Dặm. Bà tặng chủ nhà một vòng ngọc trai bằng nhựa có móc khóa kim loại
sáng loáng. Những hạt trai giả đẹp
hơn cả hạt trai thật. Thứ này phụ nữ
đeo thì tuyệt. Bà Dặm ướm thử lên cổ mình. Vòng ngọc trai làm sáng bừng chiếc
cổ nhuộm gió và muối biển đen sạm.
-Tôi cũng có những viên ngọc trai.
Nhưng làm thế nào mà đục lỗ xâu dây lại thành vòng được như thế này- Bà Dặm nói - Khi đi câu tôm thỉnh
thoảng gặp khu biển thích hợp, tôi cũng câu được cả những con trai to bằng cái
bát. Thịt trai nấu thơm ngon lắm. Và trong lòng nó có những hạt trai óng ánh.
Tôi tích lại được một vốc, để giành…
Bà Dặm đem ra chiếc túi vải rách,
đựng những hạt trai thật, to nhỏ khác
nhau, chưa được đánh bóng, nên trông rất xấu. Chả làm sao đẹp được bằng chuỗi hạt
trai nhựa tinh xảo chế tạo ở Pari của bà Mêri.
Đầy phấn khích vì được “trải nghiệm”
chuyến du lịch đặc biệt, để “hòa đồng” với “thổ dân”, bà Mêri xin hát tặng chủ
nhà một bài dân ca Pháp. Hát là nghề của bà. Nghề sống hẳn hoi. Bà vốn là ca
sĩ, vũ nữ trong các quán trà loại ba ở Pari. Giọng hát loàng xoàng, nhưng xinh đẹp, múa đẹp,
“chịu chơi”, nên sống được bằng nghề này. Cái quan trọng nhất là bà không lấy
chồng. Đấy là một ưu thế tuyệt đối, một vũ khí lợi hại, giúp bà tồn tại, thành
công, thanh nhàn giữa đất Pari, giờ về già, có tiền đi du lịch thoải mái.
Chẳng thằng đàn ông nào thích “lằng nhằng” với
gái có chồng. Chơi với! “gái không chồng” an toàn, thú vị, chẳng sợ rắc rối gì. Bà Mêri già
vẫn đẹp, vẻ đẹp sung mãn, từ bé đến giờ không biết bao nhiêu người yêu bà, và tất
nhiên là bà “ai cũng yêu và chẳng yêu
ai”. Bà sống như con chim tự do, lúc đậu cảnh này, lúc đậu cành khác. Rét thì
bà bay “di cư” xuống phương Nam ấm. Nóng thì bà lại bay về.
Kiểm điểm lại, thực ra, cũng tại bọn đàn ông.
Không có “thằng nào” yêu bà chí thiết, đưa bà về ở trong biệt thự sang trọng,
chuyển vào tài khoản của bà những “số dư” lớn. Chúng chỉ “say đắm” da thịt của
bà, còn tiền thì chi tiêu dè sẻn. Bà phải tự tạo nên cơ chế điều chỉnh, lấy cái
lợi thế “không chồng” của mình để “quan hệ” và “tích lũy”. Cuối cùng thì bà
cũng thành công. Dù hát hỏng chẳng ra gì, nhưng nghe cũng không đến nỗi nào.
Khi bà bước lên sân khấu phòng trà, khối thằng chả mê như điếu đổ, bờ vai, cánh
tay hố nách trắng muốt
cuả bà.
Bà “đếch cần” một mái ấm gia đình, “đếch
cần” những đứa con. Và bà sống như “bà hoàng”, ăn chơi, uống rượu mạnh, và bây giờ
muốn gì được nấy, kể cả thử một chuyến “du lịch mạo hiểm” bằng thuyền thúng câu tôm của “thổ dân” xem
thế nào…
Công bằng mà nói, bà là người tốt. Bà chẳng làm gì hại ai. Chẳng lừa đảo ai. Bà cũng
chẳng làm một người đàn ông nào phải đau khổ mà chết vì bà. Bà cũng chưa làm ai
phải “mất chức” ,mất
công danh vì “phạm pháp yêu vợ người khác”. Bà có chồng đâu. Suốt đời bà là
người tự do. Người tự do thì yêu đương thả sức…
Sau màn hát của Mêri, tôi đề nghị bà
Dặm cũng hát. Hát và hò kéo lưới. Dân biển nơi nào cũng biết kiểu này. Khi kéo
thuyền to,
dọc mí biển, người ta phải chụm sức lại, tròng dây thừng vào vai, và xướng lên những điệu “hò dô” làm nhịp. Những hài “hò
dô” phát triển thành những giai điệu hào hứng phấn chấn giúp người ta vượt qua
những cơn nhọc nhằn quá sức. Hò kéo thuyền trên biển, mênh mông vời vợi, là tiếng tâm hồn của những
con người xứ biển.
Dân xóm mách bà Dặm là người có giọng
hay nhất ở đây. Mỗi khi gọi nhau đi hợp sức kéo thuyền, ai cũng thích gọi bà
đứng ra “cầm càng” xướng lên để cho tất cả hò theo. Bà hò từ lúc 16 tuổi, nên bây giờ, chả ngần ngại gì mà không hò, rồi cả hát dân
ca biển cho bà khách vui tính và hào phóng vừa tặng bà chuỗi hạt trai nhựa tân
kỳ ở đây chưa ai có…
Bà Dặm bước ra chiếc chiếu giữa nhà,
hai tay đưa lên vai, kéo một chiếc dây thừng tưởng tượng. Tấm thân mềm mại dẻo
giang của bà xô nghiêng, chân choãi ra, như hình tượng trong tranh cổ điển”
Những người kéo thuyền trên sông Vonga”.
Hò ơi… Dô tá dô tà…
Thuyền từ biển lớn, sóng xa thuyền về…
Giọng bà Dặm âm âm, ngân lên, xao động. Rõ ràng là người
“có giọng”. Có cái gì vời vợi mênh mang của biển trong câu hò của bà. Những lớp sóng xa xa rồi
xô đến bồn chồn. Giọng hát từ sâu thẳm của tâm hồn biển ngân vang, chứ không
đơn thuần là phát ra từ đầu môi chót lưỡi.
Bài hò khá dài… “Ca sĩ phòng trà
chuyên nghiệp của trung tâm ăn chơi bậc nhất thế giới Pari” Mêri cũng phải im
phắc lắng nghe, xúc động…
Trở về khách sạn, bà Mêri cho tôi xem
tập anbum của bà. Những tấm “ảnh lụa” đen trắng có từ hồi thợ ảnh khi chụp còn
phải phủ tấm khăn lên đầu che kín rồi nheo một mắt qua khe ngắm…
… Cô bé Mêri 16 tuổi từ thị trấn, bỏ
nhà, trốn bố mẹ lên Pari, hai cái nơ như đôi bướm ngây thơ trinh trắng đậu trên
đầu. Tay xách gói
đồ, cô bỡ ngỡ trước bến xe điện đầy những quý ông đội mũ phớt “quả dưa”, tay cầm “ba toong” qua lại.
16 tuổi. Ừ, hình như Mêri cùng tuổi
với Dặm. Đêm Mêri đặt bước chân đầu tiên lên sâu khấu phòng trà loại ba ở Pari,
cũng là đêm Dặm một mình bơi con thuyền thúng như vỏ hạt rẻ ra Thái Bình Dương.
Đêm Mêri hát bài hát đồng quê đầu
tiên ở đấy, cũng là đêm Dặm ngồi một mình sợ chết khiếp vì sự mênh mông của
Thái Bình Dương, nên cô cũng hát lên. Sau này Mêri có mấy “bài tủ”, trong đó có một bài nói về “Sao trời và biển đêm” được thính giả
phòng trà đòi hát đi hát lại nhiều lần, vì nó gợi tả nỗi buồn cô đơn, nhỏ bé
của kiếp người… Thì chính lúc ấy Dặm đang là “nhân vật chính” của ca khúc kia.
Đêm nào Mêri cũng hát bài ấy và đêm nào Dặm cũng ra Thái Bình Dương câu đêm.
Số đêm “lao động” của họ bằng nhau.
Đời Mêri trôi qua trong các vũ trường
phòng trà thì đời của Dặm trôi qua trong đêm và sóng Thái Bình Dương.
Rồi họ cùng dần về già. Giọng hát của
Mêri có lẽ cũng không hơn gì giọng hát của Dặm. Nếu Dặm bước lên sâu khấu phòng
trà có lẽ người ta cũng chào đón nồng nhiệt như với Mêri. Nhưng đời Dặm chỉ có
những con sóng đêm Thái Bình Dương chào đón. Và Dặm hát cũng chỉ cho những con sóng đêm Thái Bình Dương nghe.
- Tôi đã tìm thấy “hình ảnh biểu
tượng” của cuộc đời mình - Bà Mêri cầm tay tôi thầm thì triết lý khi tôi xem xong tập anbum - Tôi
sẽ thuê họa sĩ vẽ hình ảnh một người đàn bà với con thuyền thúng trong đêm giữa biển cả và trời sao.
Đó chính là đời tôi
đấy. Sự cô đơn và thân phận của tôi, của kiếp người….
28/3/2014
vvvvvvvv
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét